Đại cương
Thông động tĩnh mạch là có sự lưu thông bất thường giữa động mạch và tĩnh mạch. Nguyên nhân phần lớn do chấn thương mạch máu. Vấn đề chẩn đoán cần phát hiện sớm và có thái độ xử trí kịp thời để tránh những biến chứng về tim mạch.
Lịch sử
1757 William người đầu tiên mô tả thông động tĩnh mạch.
1833 Brechet điều trị bằng cách thắt động mạch đoạn gần.
1875 Annadale thắt đồng thời động mạch và tĩnh mạch.
1897 Murphy đóng chỗ thông và thực hiện cắt – nối động mạch.
Bickham người đầu tiên đóng thông động tĩnh mạch bằng bên trong của tĩnh mạch.
1920 Matas khâu nội tĩnh mạch.
1905 Goyanes làm cầu nối bằng tĩnh mạch đầu tiên ở vùng khoeo. Trong 2 thập kỷ gần đây nhất, 3 kỹ thuật mới đã xuất hiện:
Gây tắc mạch vào năm 1974 do Serbienko thực hiện.
Đặt stent.
Kỹ thuật ép dưới sự hướng dẫn siêu âm.
Dịch tễ học
Các tác nhân gây thương tổn gồm nhiều nguyên nhân. Theo Robbs do bạch binh 63%, do hoả khí 26%, do súng săn 16%, do đầu xương gãy 2%, do thủ thuật 2%.
Tần suất các thương tổn mạch máu sau thủ thuật thông mạch từ 0,6% đến 1,3%. Ngày nay, sự thông động tĩnh mạch gia tăng do việc áp dụng càng ngày càng nhiều phương pháp điều trị nội mạch và sử dụng các ống thông có kích thước lớn.
Các nguyên nhân khác do phẫu thuật chỉnh hình (soi hớp) tạo hình khớp háng, hoặc tạo hình mạch máu, sử dụng xông Fogarty.
Sinh lý bệnh
Holman đã chứng minh rằng các tác động tại chỗ và toàn thân của các thông động tĩnh mạch phụ thuộc vào kích thước, lưu lượng máu chảy qua lỗ thông, đường kính mạch máu bị tổn thương, vị trí gần hay xa tim.
Do tăng lưu lượng máu qua tĩnh mạch làm tĩnh mạch đập và các biểu hiện tại da do tăng áp lực tĩnh mạch.
Để bù trừ sự mất máu qua lỗ thông, tim sẽ tăng lưu lượng bằng cách tăng nhịp tim và thể tích co bóp, dẫn tới tim giãn rồi sau đó phì đại cơ tim. Các thông động tĩnh mạch càng gần tim tình trạng suy tim càng nhanh.
Giãn động mạch trước chỗ thông, thành động mạch bị mỏng đi, đứt các mô đàn hồi, teo các sợi cơ và xơ hoá đôi khi kèm theo calci hoá và các thương tổn xơ vữa. Nguyên nhân dãn động mạch do tác động trực tiếp của sự gia tăng lưu lượng máu và hậu quả của nó, sự gia tăng lực xoáy của dòng máu. Cần phải đóng lỗ thông trước khi tạo thành dãn động mạch.
Chẩn đoán
Biểu hiện lâm sàng khác nhau tùy theo khoảng thời gian giữa lúc bị chấn thương và lúc phát hiện ra triệu chứng. Có thể phân biệt
3 giai đoạn:
Phát hiện ngay lúc bị chấn thương
Có tiếng thổi liên tục, tăng lên thì tâm thu.
Sờ có rung miu.
Có một khối đập, mạch ở xa yếu, khối máu tụ sâu.
Ngoại lệ là suy tim khi lỗ thông gần tim, đường kính lớn.
Nghi ngờ: Siêu âm Doppler và chụp mạch.
Phát hiện sau vài tháng, vài năm.
Tiếng thổi liên tục, khối u đập.
Sờ có rung miu, mạch ở xa yếu.
Chèn ép thần kinh, dãn tĩnh mạch nông.
Suy tim.
Siêu âm Doppler mạch và chụp mạch là cần thiết.
Thăm dò chức năng tim trước khi đặt ra chỉ định điều trị.
Phát hiện muộn trước một dãn động mạch
Bệnh nhân đến khám vì triệu chứng liên quan đến tình trạng dãn động mạch dạng túi phình: phù nề chi dưới chỗ thông, chảy máu trong, chèn ép…
Nguyên tắc điều trị
Điều trị ngoại khoa cổ điển
Bảo tồn sự lưu thông của mạch máu bằng các biện pháp sau:
Cắt chỗ thông, khâu nối tận tận động mạch và tĩnh mạch.
Khâu đơn giản một đường trung gian.
Khâu bít lỗ thông động mạch bằng đường nội tĩnh mạch.
Cắt đoạn khâu nối hoặc làm cầu nối cho động mạch và khâu bít lỗ thông tĩnh mạch bảo tồn tĩnh mạch.
Làm tắc mạch
Áp dụng 1980, nhất là đối với các mạch ở vùng mặt và chậu hông, các động mạch ở sâu hoặc các động mạch nhỏ mà đường vào khó khăn. Việc gây tắc mạch có thể được thực hiện bằng đường thông động mạch có chọn lựa hoặc bằng chọc qua da.
Đặt Stents couverts
Làm tắc đường thông động tĩnh mạch mà không cần đường rạch mô hở. Có biến chứng nhiễm trùng và nghẽn mạch thứ phát.
Ép dưới hướng dẫn của siêu âm
Đánh mốc lỗ thông bằng sonde Echo-doppler mạch và áp lỗ thông để đủ làm tắc mạch mà không gây nghẽn động mạch. Làm lập đi lập lại 10-20 phút.
Điều trị các dãn động mạch
Làm cầu nối động mạch.