HUYỆT: Á Môn
HÌNH ẢNH
TÊN HUYỆT
• Huyệt được coi là nơi (cửa = môn) mà theo người xưa, nếu cứu nhầm huyệt này có thể bị câm (á), tuy nhiên, huyệt này cũng có tác dụng trị được câm, vì vậy gọi là ÁMôn (Trung Y Cương Mục).
• “Á Môn còn có tên khác là Thiệt Yểm, ở phía sau gáy, trong chân tóc 0,5 thốn, ngay giữa chỗ lõm. Cứu vào đó làm cho người ta bị cấm khẩu, vì vậy gọi là Á Môn” (Y Kinh Lý Giải).
TÊN KHÁC
Ám Môn, Hoành Thiệt, Thiệt Hoành, Thiệt Yếm, Thiệt Căn, Thiệt Thủng, Yếm Thiệt.
XUẤT XỨ
Thiên ‘Khí Huyệt Luận’ (Tố Vấn 58).
VỊ TRÍ
Nếu có chân tóc gáy, lấy huyệt ở chỗ lõm giữa gáy và trên chân tóc 0,5 thốn. Nếu không có chân tóc gáy, huyệt ở chỗ lõm giữa gáy, dưới huyệt Phong Phủ 0,5 thốn. Phía dưới mỏm gai của đốt sống cổ 1.
ĐẶC TÍNH
• Huyệt thứ 15 của mạch Đốc.
• Hội của mạch Đốc với mạch Dương Duy.
• 1 trong nhóm huyệt Hồi Dương Cứu Nghịch: (Á Môn + Dũng Tuyền + Hợp Cốc + Hoàn Khiêu + Tam Âm Giao + Thái Khê + Trung Quản và Túc Tam Lý).
• 1 trong nhóm huyệt Tủy Khổng: (Phong Phủ (Đc 16) + Ngân Giao (Đc 28) + Á Môn (Đc 15) + Não Hộ (Đc 17) + Trường Cường (Đc 1), là những huyệt của Tủy xương (thiên ‘Cốt Không Luận’ – Tố Vấn 60)
TÁC DỤNG
Thông khiếu lạc, thanh thần chí, lợi cơ quan.
CHỦ TRỊ
Trị vùng gáy đau, cột sống cứng đau, chảy máu mũi không cầm, điên cuồng, mất tiếng đột ngột, câm, lưỡi cứng, lưỡi rụt, lưỡi teo, nói không rõ tiếng.
CHÂM CỨU
Châm thẳng, sâu 0,3 – 2 thốn. Mũi kim hướng tới phía miệng của người bệnh, ngang với trái tai. Không cứu.
GIẢI PHẪU
Dưới da là gân cơ thang, cơ bán gai hoặc cơ rối to, cơ thẳng sau đầu to, màng đội trục sau, ống sống. Thần kinh vận động cơ do ngành sau của 3 dây thần ki
PHỐI HỢP HUYỆT
1.Phối Phụ Dương (Bq 59) + Thông Thiên (Bq 7) trị đầu nặng (Tư Sinh Kinh).
2.Phối Quan Xung (Ttu 1) trị lưỡi cứng, khó nói (Châm cứu Tụ Anh).
3.Phối Phong Phủ (Đc 16) trị lưng đau như gẫy (Châm cứu Đại Thành).
4.Phối Chiếu Hải (Th 6) + Hợp Cốc (Đtr 4) + Nội Đình (Vi 44) + Phong Phủ + Thượng Tinh (Đc 21) + Túc Tam Lý (Vi 36) trị chảy máu cam (Y Học Cương Mục).
5.Phối Đại Chùy (Đc 14) trị chảy máu cam (Đan Khê Tâm Pháp).
6.Phối Ngư Tế (P 9) + Thiếu Thương (P 11) trị lưỡi cứng (Trung Hoa Châm cứu Học).
7.Phối Ế Phong (Ttr 17) + Hợp Cốc (Đtr 4) + Liêm Tuyền (Nh 23) + Nhĩ Môn (Ttu 21) + Thính Cung (Ttr 16) + Thính Hội (Đ 2) trị câm điếc (Châm cứu Học Giản Biên).
8.Phối Hậu Khê (Ttr 3) + Nhân Trung (Đc 26) trị động kinh (Châm cứu Học Thượng Hải).
9.Phối Dũng Tuyền (Th 1) trị cấm khẩu do trúng phong (Châm cứu Học Thượng Hải).
10.Phối Hưng Phấn + Nhân Trung (Đc 26) + Túc Tam Lý (Vi 36) trị ngốc khờ (si) do di chứng tổn thương ở não (Châm cứu Học Thượng Hải).
10.Phối Cân Súc (Đc 8) + Đại Chùy (Đc 14) + Hậu Khê (Ttr 3) + Nhân Trung (Đc 26) + Thân Mạch (Bq 62) + Yêu Dương Quan (Đc 3) trị phá thương phong (uốn ván) (Châm cứu Học Thượng Hải).
12.Phối Hậu Khê (Ttr 3) + Nhân Trung (Đc 26) + Phong Long (Vi 40) trị động kinh (Châm cứu Học Thượng Hải).
13.Phối Đại Chùy (Đc 14) + Ế Minh + Tích Tam Huyệt + Túc Tam Lý (Vi 36) trị não kém phát triển (Châm cứu Học Thượng Hải).
GHI CHÚ
• Không châm quá sâu hoặc chếch lên trên vì phía trước là hành tủy, chạm vào hành tủy có thể gây ngừng hô hấp hoặc ngừng tim tức khắc.
• Huyệt Á môn sau não, không được gây tổn thương, nếu bị tổn thương sẽ làm cho người ta bị câm. Nên châm hai huyệt Nhân trung, Thiên đột, sâu 2 phân [để giải] (Thánh Tế Tổng Lục).
• Nếu lỡ ngộ châm làm cho bệnh nhân câm, ngất, phải dùng huyệt Nhân Trung (Đốc 26) để giải cứu, châm sâu 1 thốn, dùng thủ thuật đề tháp, vê, rung cán kim để kích thích. Nếu không tổn thương bên trong thì người bệnh có thể hồi phục được nhưng nếu châm sâu quá không thể giải cứu được (Danh Từ Huyệt Vị Châm cứu).
• Nếu lỡ châm phải huyệt Á môn gây nên mất tiếng, câm, nếu trong vòng nửa năm, nên châm các huyệt Nhân trung, Thuỷ tuyền và Kim môn, có thể thu được hiệu quả, nếu hơn nửa năm thì khó có hiệu quả (Từ Điển Huyệt Vị Châm cứu).
THAM KHẢO
• “Huyệt Á Môn cấm không được cứu. Cứu huyệt này không thể làm cho người ta bị khan tiếng” (Giáp Ất Kinh).
• “Á Môn là 1 trong 9 huyệt để cấp cứu hồi dương. Phàm các loại bệnh nặng do dương khí muốn tuyệt đều nên dùng các huyệt này để trị” (Châm cứu Tụ Anh).
• “Trúng phong bất tỉnh nhân sự: Nhân Trung (Đc 26), Trung Xung Tb.9), Hợp Cốc (Đtr 4)… Nếu không hiệu quả, lại châm Á Môn + Đại Đôn (C 1)” (Châm cứu Đại Thành).
• “Không được châm sâu huyệt Á Môn” (Tuần Kinh).
• “Á Môn còn có tên là Thiệt Yếm, ở sau gáy, phía trong chân tóc 0,5 thốn, ngay giữa chỗ lõm. Cứu vào đó làm cho người ta bị cấm khẩu, vì vậy gọi là Á Môn” (Y Kinh Lý Giải).
• “Sách Giáp Ất ghi: “Huyệt này nhập vào cuống lưỡi” vì vậy châm huyệt này có tác động đến vùng lưỡi, có tác dụng làm cho lưỡi chuyển động” (Trung Y Cương Mục).
• “Huyệt Á Môn: châm Bổ có tác dụng ích não, tăng âm (thanh). Châm Tả có tác dụng tuyên âm (thanh) khiếu, thông mạch Đốc, giải kinh (co giật). Nếu dùng phép Thấu Thiên Lương thì có tác dụng thanh não, tỉnh trí (Thường Dụng Du Huyệt Lâm Sàng Phát Huy).
• “Huyệt Liêm Tuyền và Á Môn (Đc 15) có tác dụng khác nhau: cả 2 huyệt đều liên hệ với cuống lưỡi: 1 ở phía trước và 1 ở phía sau. Cả 2 đều được dùng trị câm, mất tiếng. Tuy nhiên, Liêm Tuyền dùng thông lạc ở lưỡi, bổ ích cho gốc lưỡi, thiên về trị bệnh câm, không nói được do gốc tại lưỡi bệnh. Á Môn có tác dụng khai âm khiếu, ích não, tăng âm. Thiên về trị câm, không nói được do bệnh của não [di chứng não…] (Du Huyệt Công Năng Giám Biệt).