Vi cầu thận là đơn vị chức năng căn bản của thận. Nó giúp thận làm tốt chức năng lọc máu thành nước tiểu để loại bỏ các độc chất sản sinh trong quá trình hoạt động của cơ thể con người ra ngoài cơ thể. Giúp điều hòa huyết áp, ổn định lượng nước tiểu… Có đến 5 hội chứng gây nên bệnh của vi cầu thận.
Đó là viêm vi cầu thận cấp, viêm vi cầu thận tiến triển nhanh, viêm vi cầu thận mạn, hội chứng thận hư và các dị thường niệu không có triệu chứng lâm sàng. Trong đó, hay gặp nhất là viêm vi cầu thận cấp, bệnh đặc biệt nguy hiểm khi hay gặp ở người trẻ tuổi, gây ra những biến chứng nặng nề ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe người bệnh.
Bệnh có những biểu hiện gì?
Bệnh hay bắt đầu bằng tình trạng đi tiểu ra máu đại thể, tức thấy máu trong nước tiểu hoặc vi thể chi thấy các hồng cầu trong nước tiểu dưới kính hiển vi. Kế tiếp là tình trạng đi tiểu ra chất đạm, là chất protein, việc phát hiện ra đạm niệu cũng dựa chủ yếu vào xét nghiệm nước tiểu. Một trong những triệu chứng rất quan trọng khiến người bệnh đi tìm bác sĩ để khám bệnh, đó là hiện tượng phù. Phù thường bắt đầu ở xung quanh hốc mắt sau đó lan xuống hai chân. Phù trắng ấn lõm và thường là phù cả hai chân. Đây là điểm rất qua trọng giúp phân biệt với phù do suy tĩnh mạch. Những trường hợp nặng hơn sẽ xuất hiện cổ trướng hay tràn dịch khoang màng phổi gây trướng bụng và khó thở.
Ngoài ra, bệnh nhân thường bị cao huyết áp do việc hoạt hóa hệ thống Angiotensin và hệ thống thần kinh giao cảm. Bệnh thường tiến triển mạnh trong vòng một tuần lễ va sau đó sẽ giảm phù. Nhưng có một số trường hợp diễn tiến sang tình trạng suy thận cấp rất nguy hiểm cho tính mạng.
Ở trẻ em bệnh diễn tiến thường thầm lặng hơn, nhiều khi không có sưng phù hai chân và lượng hồng cầu trong nước tiểu cũng ít. Do đó tiên lượng thường tốt hơn người lớn, có đến 95% các trường hợp ở trẻ em lành bệnh hoàn toàn, không tiến triển sang giai đoạn viêm vi cầu thận mạn và suy thận.
Về nguyên nhân
Hầu hết những trường hợp viêm vi cầu thận cấp ở trẻ em và người trẻ thường bị sau khi nhiễm liên cầu khuẩn ở vùng họng và Amygdal. Đặc biệt là liên cầu khuẩn nhóm A có tác dụng làm tan huyết. Loại liên cầu này thường sống khu trú ở họng và Amygdal, tuy chỉ gây ra đau họng và sốt nhưng nó để lại di chứng rất nằng nề ở tim, thận và khớp. Ông bà ta thường có câu nói: “Khớp đớp tim, tim tìm đến thận, thận cận lá gan”… để chỉ mối tương quan và mức độ nặng nề của loại bệnh này. Chúng ta không nên chủ quan với những viêm nhiễm vùng họng và tai mũi họng. Cơ chế gây tổn thương vi cầu thận sau khi bị bệnh liên cầu khuẩn rất phức tạp và tùy thuộc vào hệ thống miễn dịch của bệnh nhân.
VÀI TRƯỜNG HỢP BỆNH NHÂN ĐIỂN HÌNH:
Một phụ nữ trẻ tuổi mới trên 30, bị phù hai chân, tiểu ít năm ngày sau khi bị sốt, viêm họng. Bệnh nhân nhập bệnh viện, nước tiểu bệnh nhân ít và có màu đỏ như máu. Các bác sĩ cho thử nước tiểu thấy có đạm niệu, độ thanh thải của creatinin giảm đáng kể. Bệnh nhân được chẩn đoán viêm vi cầu thận cấp. Sau 10 ngày điều trị bệnh thuyên giảm hết phù, lượng nước tiểu trở về bình thường. Bệnh được chẩn đoán sớm nên phục hồi tốt.
Một bệnh nhân khác mới có 7 tuổi, nhập viện vì tiểu ít 4 ngày sau sốt cao, chảy nước mũi và đau họng. Khám họng bệnh nhân còn sưng đỏ cấy và soi tươi thấy có liên cầu khuẩn tán huyết type beta. Xét nghiệm nước tiểu có đạm niệu và hồng cầu với số lượng nhiều, bệnh nhân cũng được chẩn đoán là viêm vi cầu thận cấp sau viêm họng do liên cầu trùng.
Phù thường bắt đầu ở xung quanh hốc mắt sau đó lan xuống hai chân
Diễn tiến của bệnh có nguy hiểm không?
Tiên lượng về sự diễn tiến của bệnh viêm vi cầu thận cấp sau nhiễm liên cầu khuẩn rất khác nhau giữa những trường hợp lẻ tẻ với những trường hợp dịch tễ. Có nghĩa là những bệnh nhân mắc bệnh trong cơn dịch có tiên lượng tốt hơn so với những trường hợp mắc bệnh lẻ tẻ cũng như giữa người lớn với trẻ em. Các dạng bệnh trong đợt dịch, ở trẻ em có tiên lượng trước mắt và lâu dài đều tốt. Chỉ có một số ít bệnh nhân tử vong do biến chứng suy thận. Còn lại hầu hết các trường hợp đều phục hồi tốt sau một tuần nhiễm bệnh. Tình trạng tiểu máu và tiểu ra chất đạm sẽ giảm dần và có thể biến mất sau vài tháng.