Chóng mặt là chứng bệnh mà đầu choáng váng, mắt hoa, trời đất quay cuồng như ngồi trên chiếc xuồng, đứng dậy thì muốn ngã. Các nhận định của các Nhà y gia xưa nay đều không nhất trí về nguyên nhân bệnh. Có người cho là do can phong nội động, tức các chứng phong làm họ quay cuồng, choáng váng đều thuộc vào can. Có người cho là do đàm ẩm, tức là không có đàm thì không làm gì có choáng váng (huyễn). Có người cho là do khí hư, tức là trung khí hãm xuống dưới, thanh dương không thăng. Có người cho là do huyết hư, tức là tâm và tỳ đều bị thương, huyết không hàm dưỡng được cho não. Có người cho là không có hư thì không có huyễn, nên chữa hư làm chủ. Có người cho là thận thủy bất túc, mệnh môn hoả suy. Đó là những luận thuật của tiền nhân, nhưng đối với kinh nghiệm lâm sàng ngày nay, chúng ta thấy do hư là chiếm đa số. Có khi do thận thuỷ bất túc, thủy không hàm dưỡng được mộc. Can dương thiên về kháng lên trên làm nhiễu loạn thanh khí mà sinh ra bệnh. Có khi do tâm và tỳ bị hư tổn, khí huyết bất túc, tuỷ hải không bị hư mà phát bệnh. Có khi do tỳ vị hư nhược không còn vận hoá được tinh vi, tích ẩm thành đàm, đàm trọc ùn tắc, hoặc đàm hoả thăng lên trên là che mờ khí thanh dương ở thượng khiếu mà thành bệnh. Nói tóm lại chứng này do hư là số nhiều, do thực thì ít hơn.
TRỊ LIỆU
Chóng mặt do hư chứng
Chứng trạng: Đầu và mắt choáng váng, bệnh xảy ra chậm nhưng kéo dài liên miên, tâm hồi hộp, tinh thần mệt mỏi, tứ chi kém ấm, mất ngủ, kiện vong, mắt không nhìn rõ vật, lợm giọng muốn nôn, mạch phần lớn tế nhược vô lực, rêu lưỡi trắng.
Phép trị: Kiện tỳ ích khí, bổ thận dưỡng tâm.
Xử phương và phép châm cứu: Châm bổ bách hội 3 phân, tả thái dương 3 phân, châm tiền bổ hậu tả phong trì 3 phân, bổ quan nguyên 5 phân, cứu 3 tráng, bổ tỳ du 3 phân, bổ thận du 3 phân, bổ túc tam lý, tam âm giao đều 5 phân, châm bình bổ bình tả nội quan sâu 5 phân.
Phép gia giảm : Nếu đàm nhiều châm thêm tả phong long, bổ chương môn 2 phân, bổ trung quản 5 phân cứu 3 tráng; nếu thận dương hư châm thêm bổ khí hải 5 phân, cứu 3 tráng.
Chứng trạng: Chứng Chóng mặt đến khá nhanh và nặng, có khi xảy ra từng cơn, ngực và thượng vị bị đầy và bứt rứt, trong tâm thường muốn ói (thổ), đầu mắt choáng váng đến nỗi không ngồi lên được, tâm phiền, miệng đắng, mất ngủ,ngủ nhiều mộng mị, đau buốt thắt lưng, tay chân bị tê mất cảm giác, mặt mũi đỏ, mạch đa số là huyền hoạt hoặc huyền sác, lưỡi đỏ, rêu vàng.
Phép trị: Tức phong, tiềm dương, điều đàm, giáng hoả.
Xử phương và châm cứu: Châm bách hội 2 phân tiền bổ hậu tả, tả phong trì, tả can du 3 phân, tả thái xung 2 phân, bổ dũng tuyền 3 phân, tả túc tam lý 5 phân, châm tam âm giao cả bổ lẫn tả 3 phân, tả phong long 5 phân, lưu kim 10 phút.
Phép gia giảm: Nếu đàm hoả quá thịnh, dùng phương trên nhưng bỏ phong trì, dũng tuyền, tam âm giao, thêm trung quản tiền tả hậu bổ, tả chi chính 5 phân, tả vị du 3 phân. Nếu thận khí quá hư, thêm tả bát phong và bát tà đều 3 phân, bổ thận du 3 phân.
CẤM KỴ
Khí hoả vượng ít ăn đồ cay; khi đàm thịnh câm ăn các chất dầu mỡ…