Kinh nguyệt bình thường của phụ nữ là trên dưới 28 ngày một lần. Nếu vượt quá hoặc ít hơn, gọi là kinh nguyệt sớm hoặc muộn. Sớm là có trước 7 – 8 ngày trở lên hoặc một tháng 2 lần. Muộn là sau 7 – 8 ngày trở lên hoặc 2 – 3 tháng một lần. Cả hai tình huống gọi là rối loạn kinh nguyệt. Thường do can khí bất thư hoặc do thân thể yếu đuối gây ra.
1. Hành kinh sớm: Chưa đến kỳ tháng đã thấy kinh, lượng máu kinh ra nhiều, màu sắc đỏ sẫm hoặc tím đen, có cục, có kèm bứt rứt, nóng nẩy, miệng khô khát, thích uống lạnh, bụng dưới đau từng cơn, bầu vú hơi cứng lên, rất dễ cáu, đại tiện táo bón, nước tiểu vàng ít, vàng.
Cách chữa: lấy huyệt: Khí hải, Trung cực, Huyết hải, Tam âm giao, Thái xung, Tỳ du. Các huyệt trên dùng hào kim vê chuyển tiến kim theo thủ pháp tả, hoặc bình bổ bình tả. Lưu kim 20 phút.
Giảng nghĩa của phương: Phương này chủ yếu là thông điều xung, nhâm mạch, lý khí, hoà huyết. Khí hải điều nguyên khí toàn thân. Khí là soái của huyết. Khí đủ thì hệ thống huyết tự điều. Trung cực điều nhâm mạch mà thông địa đạo (**), Huyết hải có thể Tam âm giao để thông kinh khí của ba kinh âm, dẹp hoả ở 3 âm, để thanh nhiệt dưỡng âm. Tỳ du để vận khoẻ tỳ, vị, làm cho khí huyết sung túc, tức kinh nguyệt tự điều.
2. Hành kinh chậm: Hành kinh chậm muộn, có khi 40 ngày hay 50 ngày mới hành kinh một lần. Lượng máu rất ít, màu nhạt, sắc mặt trắng bợt, tinh thần mệt mỏi, sợ lạnh, trong hoặc sau khi hành kinh bụng dưới đau lâm râm, thường váng đầu, có quầng đen ổ mắt, hồi hộp, đau lưng…
Cách chữa: lấy huyệt: Quan nguyên, Mệnh môn, Thận du, đều dùng hào kim vê chuyển tiến kim theo bổ pháp, lưu kim 50 phút, châm xong cứu thêm.
Giảng nghĩa của phương: Quan nguyên điều kinh khí của nhâm mạch. Mệnh môn để ôn dương, phối hợp với Thận du bổ thận ích kinh, kinh nguyệt chậm do hư hàn rất nên dùng.
(+) Kinh nguyệt không đều: Địa cơ, Huyết hải.