Nuôi con bằng sữa mẹ nên khuyến khích bằng các biện pháp giáo dục trong thời kỳ thai nghén và hậu sản. Cần phải nói cho người mẹ biết và ích lợi của nuôi con bằng sữa mẹ: hài lòng về cảm xúc, làm tăng thêm mối liên kết giữa mẹ và con, kinh tế và cung cấp miễn dịch quan trọng cho đứa trẻ. Thời kỳ mất kinh kết hợp với cho con bú thường xuyên và kéo dài giúp cho hạn chế sinh đẻ tốt cho đến khi kinh nguyệt bát đầu vào 6 – 12 tháng sau khi đẻ hoặc khi giảm mức độ cho bú. Nếu như người mẹ phải trở lại làm việc thì ngay cả thời gian cho con bú ngắn ngủi cũng có ích. Sự truyền globulin miễn dịch trong sữa non và sữa của vú bảo vệ cho đứa trẻ chống lại nhiều bệnh nhiễm khuẩn toàn thân và nhiễm khuẩn đường ruột. Các đại thực bào và lympho bào được truyền vào đứa trẻ qua sữa đóng một vai trò bảo vệ miễn dịch. Hệ vi khuẩn đường ruột của trẻ bú mẹ ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh. Những đứa trẻ bú mẹ ít bị bệnh nhiễm khuẩn và virus hơn, bệnh ỉa chảy nhẹ hơn, ít dị ứng hơn và ít bị béo phệ về sau hơn là những đứa trẻ nuôi bộ.
Cho bú thường xuyên đòi hỏi phải có giờ giấc để tăng cường tiết sữa và cho bú có kết quả. Việc nuôi dưỡng bằng sữa mẹ giúp ích về mặt thời gian, đầu tiên, được các thầy thuốc, y tá và các bà mẹ nuồi con bằng sữa mẹ ủng hộ. Sự cung cấp sữa có thể được tăng lên bằng cách tăng hút sữa và tăng cường nghi ngơi.
Những bà mẹ cho con bú nên dùng hơn 2 lít dịch/ngày. Ở Mỹ kêu gọi tăng thêm 21g protein (thêm vào 44g/ngày của mức cơ bản cho một phụ nữ, và thêm 550Kcal/ngày trong 6 tháng đầu thời kỳ cho con bú. Calci đưa vào phải là 1200mg/ngày. Tiếp tục cung cấp bổ sung vitamin và muối khoáng trước đẻ là tốt. Những người ăn chay khắt khe họ kiêng cả sữa và trứng nên thường xuyên bổ sung thêm vitamin B12 trong thời kỳ thai nghén và cho con bú.
Ảnh hưởng của thuốc ở người mẹ cho con bú
Các thuốc được sử dụng cho người mẹ cho con bú có thể tích luỹ trong sữa và được truyền sang đứa trẻ. Mức độ thuốc đi vào trong sữa phụ thuộc vào sự hoà tan trọng lipid, cơ chế vận chuyển và mức độ ion hóa của thuốc.
Ức chế tiết sữa
Ức chế cơ học
Sau khi đã cho bú một thời gian, phương pháp hạn chế tiết sữa đơn giản nhất và an toàn nhất là chuyển dần đứa bé sang bú chai hoặc uống cốc từ từ trong khoảng thời gian trên 3 tuần. Sự cung cấp sữa sẽ giảm với nhu cầu giảm và sự khó chịu tối thiểu xảy ra sau đó. Nếu việc cho bú phải ngừng đột ngột thì người mẹ nên tránh kích thích núm vú, cố nhịn vắt sữa và sử dụng nịt vú. Chườm đá và thuốc giảm đau có thể có ích. Nếu cần giảm tiết sữa ngay cả trước khi bắt đầu đợt cho bú cũng sử dụng kỹ thuật trên. Sự cương sữa sẽ thoái lui từ từ sau 2 – 3 ngày.
Ức chế bằng hormon
Có các dược phẩm hormon uống và tiêm có tác dụng kéo dài để hạn chế tiết sữa. Chúng đều có tác dụng nếu như đã bắt đầu vào đẻ nhưng thỉnh thoảng nó có tác dụng phụ – tăng nguy cơ huyết khối tắc mạch (estrogen); mọc lông tóc (androgen), thay đổi huyết áp và thay đổi cảm xúc tạm thời (bromocriptin).
Bảng. Các thuốc và các chất được sử dụng thận trọng hoặc không được sử dụng cho các bà mẹ đang cho con bú(1).
(Các thuốc khác cũng có chống chỉ định trong khi có thai và cho con bú. Đánh giá bất kỳ thuốc nào về sự cần thiết và những ảnh hưởng có hại tiêm tàng của nó).
Rượu
Không có ảnh hưởng có hại trừ khi uống quá nhiều, khi đó có thể làm giảm sự phát triển chiều cao và tính dịu kích thích.
Kháng sinh
Aminoglycosid. Không nên; sẽ làm thay đổi vi khuẩn đường ruột của đứa trẻ.
Nitriturantoin. Có thể gây ra bệnh thiếu máu huyết tán cho đứa trẻ kèm thiếu hụt glucose – 6 – phosphat dehydrogenase (G6 PD).
Tetracyclin. Ảnh hường liên quan đến liều lượng – nếu lượng đứa trẻ nhận từ sữa mẹ là quá ít để gây ra mất màu của răng thì an toàn.
Chloramphenicol(2). Trẻ sơ sinh không có khả năng kết hợp thuốc có hại tiềm tàng với tủy xương dẫn đến thiếu máu, shock và từ vong.
Sulfonamid(2). Có thế gây ra vàng da trong thời kỳ sơ sinh, có thể gây ra bệnh thiếu máu huyết tán cho đứa trẻ do thiếu glucose – 6 – phosphat dehycLrogenase (G6PD).
Metronidazol. Việc cho con bú có thể lại tiếp tục 48 giờ sau khi dùng liều cuối cùng.
Chất chống đông
Phenindion(2). Có thể sử dụng heparin hay wafarin thay thế.
Kháng histamin
Chống chỉ định bởi vì tăng nhạy cảm của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đối với chất kháng histanin.
Thuốc chống ung thư(2)
Ngừng cho con bú nếu như đang dùng các thuốc này.
Kháng giáp trạng
Thiouracil(2), methemazol(2). Chống chỉ định; có thể gây ra bướu giáp hoặc chứng mất bạch cầu hạt.
Propylthiouracil. Cân nhắc sự an toàn.
Thuốc tim mạch
Quinidin(2). Chống chỉ định; có thể gây ra loạn nhịp tim cho trẻ.
Cimetidin(2), ranitidin
Tập trung ở sữa; có thế ức chế độ acid dạ dày và gây ra kích thích hệ thống thần kinh trung ương.
Alcaloid cựa gà
Ergotamin (với liều điều trị chửng dau nừa dầu) (2). Gây ra nôn, ỉa chảy, có giật – Có thể ức chế sự tiết sữa.
Bromocriptin(2). Ức chế sự tiết sữa.
Muối vàng
Chống chỉ định.
Hormon
Thuốc tránh thai uống. Chống chỉ định; có thể làm giảm cung cấp sữa. Viên nhỏ chỉ chứa progestin có thể sử dụng được.
Thuốc nhuận tràng
Cascara, senna. Có thể gây ra ia chảy cho trẻ.
Lithium carbonat(2)
Chống chỉ định vì độc tính.
Nicotin
Làm tăng bệnh hô hấp của trẻ tiếp xúc với khói thuốc.
Các chất phóng xạ đế thử nghiệm(2).
Ga67. Một số lượng không đáng kể bài tiết qua sữa; không cho bú hai tuần.
I125. Ngừng cho bú trong 48 giờ.
I131. Sau một liều thử nghiệm, cho bú có thể ngừng sau 24 – 36 giờ, sau một liều điều trị, có thể ngừng cho bú 2 – 3 tuần.
Tc99m. Thôi cho bú trong 72 giờ (thời gian bán hủy 6 giờ).
Thuốc an thần, thuốc trấn an thần kinh
Có thể làm an thần gây ngủ cho đứa trẻ. Benzodiazepin nên tránh.
Các thuốc khác
Cafein. Với số lượng lớn gây kích thích, khó ngủ.
Canabis(2), cocain(2), polyhalogenat biphenyl (ví dị PCBs, PBBs); B Lysergic acid (LSD) (2). Chống chỉ định; có thể ánh hưỏng khả năng chăm sóc và nuôi dưỡng của người mẹ.
(1) in lại có sửa đổi.
(2) thuốc chống chỉ định tuyệt đối.
(1) Ức chế bằng estrogen Ethenyl estradiol 0,05mg, dùng như sau:
Bốn viên (0,2mg) hai lần một ngày trong ngày hậu sản đầu tiên.
Ba viên (0,15mg) hai lần một ngày vào ngày thứ hai.
Hai viên (0,1mg) hai lần một ngày vào ngày thứ ba.
Một viên (0,05mg) hai lần một ngày vào ngày thứ tư đến ngày thứ bảy.
(2) Ức chế hằng estrogen và androgen – Testosteron enanthat 180mg/ml, và estradiol valerat 8mg/ml, 2 ml tiêm bắp ngay sau khi đẻ, rất có hiệu quà.
(3) Ức chế bằng bromocriptin – Bromocriptin 2 ống uống hai lần một ngày cùng với bữa ăn trong 10 – 14 ngày sẽ sức chế tiết sữa ở những bà mẹ không muốn nuôi con bằng sữa mẹ hoặc sau khi đẻ thai lưu hoặc sẩy thai. Sự tiết sữa nhảy vọt có thể xảy ra khi ngừng thuốc. Không nên bắt đầu dùng thuốc trước 4 giờ sau đẻ trước khi những dấu hiệu sống đã ổn định. Hạ huyết áp giả tạo, buồn nôn, đau đầu, chóng mặt, xung huyết mũi và táo bón nhẹ đã được nhận thấy coi là các tác dụng phụ. Những triệu chứng này có thể được làm dịu đi bàng cách giảm liều thuốc tạm thời. Tăng huyết áp, cơn giật, đột quỵ và nhồi máu cơ tim cũng đã thấy ớ một số ít bà mẹ. Vì có khả năng này, nên thuốc không được sử dụng cho những bệnh nhân tăng huyết áp do thai nghén và phải ngừng dùng nếu xảy ra đau đầu nhiều hoặc rối loạn thị giác. Huyết áp phải được theo dõi cẩn thận trong suốt thời gian sử dụng bromocriptin.