Giới thiệu đại cương
Trong khi áp dụng châm cứu để chữa bệnh, học thuyết kinh lạc cần được tuân thủ. Phải có quan niệm đúng đắn về sự tuần hành kinh mạch, về sự phân bố huyệt vị, và những triệu chứng bệnh của mỗi kinh mạch. Khi điều trị một bệnh chứng, trước hết phải phân tích các triệu chứng và các dấu hiệu một cách thận trọng, xác định bản chất bệnh, tìm xem bộ phận nào chịu ảnh hưởng và nắm chắc đường kinh nào bị xâm phạm, trước khi đi đến kết luận. Sau khi đã nhận định kỹ càng, hãy chọn huyệt và quyết định phương thức điều trị.
Trong những năm gần đây, các cán bộ y tế đã biết kết hợp những kiến thức về sinh lý và giải phẫu học hiện đại với học thuyết kinh lạc trên thực tiễn lâm sàng; nghĩa là ngoài việc chọn huyệt theo sự phân bố của các đường kính, còn căn cứ vào sự phân bố thần kinh, vì vậy đã đạt được những kết quả điều trị đáng kể.
Khi tiến hành điều trị, cần xác định xem nên áp dụng châm hay cứu. Châm và cứu là hai phương pháp chữa bệnh, mỗi phương pháp đều có những tác dụng riêng biệt bởi vậy việc chỉ định đối với từng phương pháp cũng khác nhau. Châm được chỉ định trong những chứng bệnh thuộc hư chứng lẫn thực chứng, còn cứu thì được chỉ định chủ yếu do những bệnh thuộc hư chứng, có nghĩa là không nên điều trị các chứng bệnh có sốt bằng phương pháp này.
Về thao tác, các sách kinh điển y học có ghi: “hư chứng thì dùng phép bổ (làm tăng cường), và thực chứng thì dùng phép tả (giảm nhẹ) “Châm nông đối với những chứng bệnh ở ngoài da, châm sâu đối với những bệnh thuộc gân cốt”, “châm nhanh cho các chứng có sốt, châm lưu kim cho các bệnh trạng đau đớn dữ dội”, “chích tĩnh mạch nếu có tình trạng ứ trệ huyết dịch”,… Đó là những quy tắc được các danh y tiền bối nêu lên, xuất phát từ kinh nghiệm thực tế, mặc dầu chưa thật đầy đủ, vẫn có thể được xem như phương châm dắt dẫn cho thực hành lâm sàng, và có thể dùng làm tư liệu tham khảo.
Phương pháp thao tác là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Để đưa kỹ thuật đạt đến một trình độ cao hơn, thầy thuốc phải thường xuyên tra cứu, tập hợp tài liệu, đi đến những kết luận rút ra từ thực tế bản thân, như vậy mới mong ngày càng tiến bộ hơn.
Những quy tắc chọn huyệt
Chọn huyệt và định ra phương pháp là cái “chìa khoá” để tiến hành điều trị châm cứu. Trên lâm sàng, những phương pháp sau đây thường được ứng dụng: chọn huyệt ở xa theo đường tuần hành kinh mạch, chọn huyệt Hợp cốc cho những bệnh ở mặt, huyệt Ngoại quan cho bệnh ở vùng thái dương, huyệt Hậu khê cho những bệnh ở đỉnh đầu, huyệt Túc tam lý cho những bệnh ở bụng trên, huyệt Dương lăng tuyền cho những bệnh ở vùng hạ sườn, huyệt Uỷ trung cho bệnh thuộc vùng lưng – thắt lưng. Phương pháp này áp dụng cho những chứng bệnh ảnh hưởng đến vùng đầu, mặt, thân và các nội tạng.
Chọn huyệt tại chỗ và lân cận
Theo phương pháp này, ta vận dụng những huyệt nhạy cảm tại chỗ hoặc lân cận. Thí dụ: đau răng và bệnh thuộc hàm dưới, dùng huyệt Giáp xa và huyệt Hạ quan; bệnh về mắt thì dùng huyệt Tình minh, huyệt Cầu hậu và huyệt Thái dương; bệnh vùng hố chậu, dùng huyệt Trung cực và huyệt Thứ liệu; bệnh dạ dày, có thể chọn huyệt Trung quản và huyệt Lương môn.
Hai phương pháp trên luôn luôn được phối hợp trong việc lập phương huyệt điều trị. Để làm thí dụ, ta hãy xem bảng sau đây:
Một vài thí dụ về cách chọn huyệt
Phía trước | Khu vực bị bệnh | Huyệt vị tại chõ và lân cận | Huyệt vị ở xa | |||||
Chi trên | Chi dưới | |||||||
Trán | Ấn đường, Dương bạch | Hợp cốc | ||||||
Mặt và má | Địa thương, Giáp xa | Hợp cốc | Nội đình | |||||
Mắt | Tình minh, Thừa khấp | Dưỡng lão | Quang minh | |||||
Mũi | Nghinh hương, Ấn đường | Hợp cốc | ||||||
Cổ, họng | Liêm tuyền, Thiên đột | Liệt khuyết | Chiếu hải | |||||
Ngực | Đản trung. Các huyệt nằm dọc các đốt sống từ D1 đến D7 (cả hai bên) | Khổng tối | Phong long | |||||
Bụng trên | Trung quản. Những huyệt nằm dọc các đốt sống từ D9 đến L2 (cả hai bên) | Nội quan | Túc tam lý | |||||
Bụng dưới | Quan nguyên. Những huyệt nằm dọc các đốt sống từ L2 đến S4 (cả hai bên) | Tam âm giao | ||||||
Phía trên | Vùng thái dương | Thái dương, suất cốc | Ngoại quan | Túc lâm khấp | ||||
Tai | Thính hội, thính cung ế phong | Trung chử | Hiệp khê | |||||
Vùng sườn và hạ sườn | Kỳ môn, can du | Chi câu | Dương lăng tuyền | |||||
Phía sau | Vùng chẩm và gáy | Phong trì, Thiên trụ | Hậu khê | Thúc cốt | ||||
Vùng lưng – thắt lưng | D1-D7 | Đại chuỳ, Phế du | Côn lôn | |||||
D8-L2 | Can du, Vị du | Ủy trung | ||||||
L2-S4 | Thận du, Đại trường du | Âm môn | ||||||
Hậu môn | Trường cường
Bạch hoàn du |
Thừa sơn | ||||||
Chi trên | Khớp vai | Kiên ngung
Kiên trinh |
Khúc trì | |||||
Khớp khuỷu | Khúc trì, Thủ tam lý
Ngoại quan |
|||||||
Khớp cổ tay | Hợp cốc, Hậu khê | |||||||
Chi dưới | Khớp háng | Hoàn khiêu. Những huyệt nằm dọc các đốt sống L4 –5 (cả hai bên) | Dương lăng tuyền | |||||
Khớp gối | Độc tỵ
Dương lăng tuyền |
|||||||
Khớp cổ chân | Giải khê, Khâu hư
Thái khê |
|||||||
Chọn huyệt theo triệu chứng
Điều này có ý nghĩa là kê huyệt theo tính chất trị liệu của chúng trong việc điều trị triệu chứng một số bệnh. Ta hãy xem bảng dưới đây:
Một vài thí dụ về cách chọn huyệt theo đối chứng trị liệu một số chứng bệnh thường gặp
Triệu chứng bệnh | Huyệt vị |
Sốt | Đại chuỳ, Khúc trì, Hợp cốc |
Choáng | Nhân trung, Thần khuyết (cứu), Quan nguyên, Nội quan, Trung xung |
Ra nhiều mồ hôi | Âm khích, Phục lưu |
Ra mồ hôi trộm | Hậu khê, Âm khích |
Mất ngủ | Thần môn, Tam âm giao, Thái khê, Thần đình, Tứ thần thông |
Ngủ hay mộng mị | Tâm du, Thần môn, Thái xung |
Co thắt cơ nhai | Hạ quan, Giáp xa, Hợp cốc |
Tiết nhiều nước bọt | Thừa tương, Địa thương, Liêm tuyền |
Đánh trống ngực | Nội quan, Khích môn |
Đau vùng tim | Đản trung, Nội quan |
Ho | Thiên đột, Liệt khuyết, Tam âm giao |
Khó nuốt | Thiên đột, Nội quan, Liêm tuyền |
Nôn mửa | Nội quan, Túc tam lý |
Co thắt cơ hoành (nấc) | Cách du, Túc tam lý |
Chướng bụng | Thiên khu, Tam âm giao, Túc tam lý, Kiến lý, Khí hải |
Đau vùng hạ sườn | Chi câu, Tam âm giao, Kỳ môn, Âm lăng tuyền |
ỉa chảy (khó tiêu) | Túc tam lý, Công tôn, Thiên khu, Khí hải |
Bí đái | Tam âm giao, Âm lăng tuyền |
Đái dắt, di niệu | Khúc cốt, Tam âm giao |
Di tinh, liệt dương xuất tinh sớm | Quan nguyên, Tam âm giao |
Táo bón | Thiên khu, Chi câu |
Co thắt cơ sinh đôi bắp chân | Thừa sơn |
Lở ngứa ngoài da | Khúc trì, Huyết hải, Tam âm giao |
Suy nhược cơ thể | Quan nguyên, Túc tam lý |
Sa trực tràng | Trường cường, Thừa sơn |
Chọn huyệt đặc hiệu
Huyệt đặc hiệu bao gồm: huyệt Ngũ du ở tứ chi, huyệt Nguyên, huyệt Lạc, huyệt Khích, các huyệt Bối du, huyệt Mộ. Sau đây là sự hướng dẫn phương pháp phối hợp những loại huyệt này.
Phối hợp huyệt Bối du và huyệt Mộ:
Mỗi tạng và phủ (nội tạng) đều có một huyệt Bối du và một huyệt Mộ tương ứng. Những huyệt này có liên quan mật thiết với chức năng thuộc từng phủ tạng riêng biệt của chúng. Khi một nội tạng nào đó bị bệnh, thì huyệt Bối du và huyệt Mộ thuộc phủ tạng tương ưng có thể vận dụng để điều trị. Có thể chỉ sử dụng đơn phương huyệt Bối du hay huyệt Mộ, hoặc cùng sử dụng cả hai loại phối hợp. Sau đây là bảng hướng dẫn sự phối huyệt này.
Phương pháp phối huyệt Bối du và huyệt Mộ:
Nội tạng | Huyệt Bối du | Huyệt Mộ |
Phế | Phế du | Trung phủ |
Tâm bào lạc | Quyết âm du | Đản trung |
Tâm | Tâm du | Cự khuyết |
Can | Can du | Kỳ môn |
Đởm | Đởm du | Nhật nguyệt |
Tỳ | Tỳ du | Chương môn |
Vị | Vị du | Trung quản |
Tam tiệu | Tam tiêu du | Thạch môn |
Thận | Thận du | Kinh môn |
Đại trường | Đại trường du | Thiên khu |
Tiểu trường | Tiểu trường du | Quan nguyên |
Bàng quang | Bàng quang du | Trung cực |
Phối hợp huyệt Nguyên và huyệt Lạc:
Các huyệt Nguyên (huyệt nguồn gốc) được chỉ định điều trị triệu chứng thuộc bản kinh. Còn các huyệt lạc (luyệt liên lạc) được chỉ định điều trị triệu chứng thuộc “đường kinh có mối quan hệ biểu – lý”. Châm phối hợp hai loại huyệt này thường cho kết quả điều trị khá tốt.
Trên lâm sàng, hai loại huyệt này có thể sử dụng riêng biệt hoặc phối hợp. Ta vẫn có thể dùng đơn phương huyệt nguyên hay huyệt lạc. Khi một đường kinh bị bệnh, thì huyệt nguyên của đường kinh đó được dùng làm huyệt chính, còn huyệt lạc thuộc “kinh mạch có mối quan hệ biểu – lý” thì được dùng phối hợp làm huyệt phụ. Thí dụ, về chức năng, kinh TháI âm Phế ở tay và kinh Dương minh Đại trường ở tay được xem như “có mối quan hệ biểu – lý”. Nếu kinh Phế bị bệnh, huyệt Thái uyên (huyệt nguyên của kinh Phế) và huyệt Thiên lịch (huyệt lạc của kinh Đại trường) có thể được chỉ định sử dụng. Điều trị bệnh thuộc kinh Đại trường, huyệt Hợp cốc (huyệt nguyên của kinh Đại trường) và huyệt Liệt khuyết (huyệt lạc của kinh Phế) có thể được chỉ định sử dụng. Ta hãy xem bảng sau đây:
Phối hợp huyệt nguyên và huyệt lạc:
Đường kinh | Huyệt nguyên (thuộc kinh có bệnh) | Huyệt lạc (thuộc kinh có quan hệ kiểu – lý) |
Kinh Phế | Thái uyên | Thiên lịch |
Kinh Đại trường | Hợp cốc | Liệt khuyết |
Kinh Vị | Xung dương | Công tôn |
Kinh Tỳ | Thái bạch | Phong long |
Kinh Tâm | Thần môn | Chỉ chính |
Kinh Tiểu trường | Uyển cốt | Thông lý |
Kinh Bàng quang | Kinh cốt | Đại chung |
Kinh Thận | Thái khê | Phi dương |
Kinh Tâm bào lạc | Đại lăng | Ngoại quan |
Kinh Tam tiêu | Dương trì | Nội quan |
Kinh Đởm | Khâu khư | Lãi câu |
Kinh Can | Thái xung | Quang minh |
Vận dụng 5 huyệt du (Ngũ du huyệt) ở tứ chi:
Thông thường những huyệt Tỉnh được chỉ định trong các chứng rối loạn tâm thần, kích thích và thao cuồng; những huyệt Huỳnh được chỉ định trong các chứng sốt; những huyệt Du thì chủ yếu dùng cho chứng thấp khớp; huyệt Kinh được sử dụng trong chứng ho, hen suyễn và các chứng bệnh thuộc thanh quản và hầu; huyệt Hợp được chỉ định cho bệnh thuộc vị – trường và bệnh thuộc các phủ. (Chi tiết về các huyệt Ngũ du thuộc tứ chi).
Vận dụng các huyệt khích, 8 huyệt hội và 8 huyệt giao hội thuộc 8 kinh mạch kỳ:
Huyệt khích chủ yếu được sử dụng điều trị các bệnh cấp tính thuộc đường kinh hữu quan. Thí dụ, huyệt Khổng tối, huyệt khích thuộc kinh Thái âm Phế ở tay, được chỉ định trong trường hợp ho ra máu. Huyệt Ôn lưu, huyệt khích của kinh Dương minh Đại trường ở tay, được sử dụng điều trị chứng sôi bụng và đau bụng. Huyệt Lương khâu, huyệt khích của kinh Dương minh Vị ở chân, được dùng điều trị chứng đau dạ dày cấp tính và huyệt Địa cơ thuộc kinh Thái âm Tỳ ở chân, dùng điều trị chứng thống kinh.
8 huyệt hội được chỉ định điều trị bệnh thuộc tạng (tâm, phế, tỳ, thận, can, tâm bào lạc), thuộc phủ (đại trường, tiểu trường, đởm, vị, bàng quang, tam tiêu), thuộc khí (hệ thống hô hấp) thuộc huyết, thuộc cơ và cân, thuộc mạch máu, thuộc xương và tuỷ. Thí dụ, huyệt hội thuộc tạng là huyệt Chương môn, được chỉ định điều trị các chứng bệnh thuộc tạng; huyệt hội thuộc phủ, là huyệt Trung quản, được chỉ định điều trị các chứng bệnh thuộc phủ, huyệt hội thuộc khí là huyệt Đản trung, chữa ho và khó thở. Huyệt cách du có tác dụng điều trị bệnh thuộc huyết như ho ra máu, và chứng suy mòn. Huyệt Dương lăng tuyền, huyệt hội thuộc cân – cơ, được chỉ định trong bệnh teo cơ và liệt Huyệt Thái uyên, huyệt hội thuộc mạch máu, dùng điều trị những bệnh về mạch máu. Huyệt hội của xương, huyệt Đại trữ có thể điều trị chứng đau nhức các khớp xương. Huyệt hội của tuỷ, huyệt Huyền chung, dùng điều trị tai biến mạch máu não, bệnh bại liệt, liệt nửa người…
8 huyệt giao hội thuộc 8 kinh kỳ gồm 4 cặp huyệt ở các chi trên và dưới (về chi tiết, xem trang …). Trên lâm sàng, thầy thuốc có thể chọn một trong những cặp huyệt thuộc chi trên và một trong những cặp huyệt thuộc chi dưới. Những thí dụ về cách phối hợp và chỉ định điều trị của chúng như sau: Nội quan thuộc cẳng tay phối hợp với Công tôn thuộc bàn chân để điều trị các bệnh ở vùng ngực, vùng tim và vùng dạ dày; Hậu khê phối hợp với Thân mạch, được chỉ định điều trị các bệnh ở cổ, vai lưng và vùng khoé mắt trong; Ngoại quan phối hợp với Túc lâm khấp được chỉ định điều trị những bệnh ở vùng sau tai, má và khoé mắt ngoài; Liệt khuyết phối hợp với Chiếu hải, dùng điều trị các bệnh ở họng, ngực và phổi. Đôi khi những huyệt này có thể được sử dụng đơn phương tuỳ từng trường hợp bệnh lý.
Chọn huyệt theo sự phân bố thần kinh
Đối với những bệnh thuộc đầu, thân, tứ chi và các cơ quan nội tạng, ta có thể chọn huyệt theo từng khu vực do sự chi phối của các dây thần kinh gai sống, các đám rối thần kinh và các thân thần kinh. Từng phân đoạn tương ứng của huyệt Hoa đà hiệp tích cần được nghiên cứu vận dụng.