Rất nhiều bệnh lý của khớp và ngoài khớp gây ra đau vùng cổ, vai và chi trên. Chẩn đoán phân biệt thường khó. Một số trong những lâm sàng này là những tổn thương tiên phát vùng cổ cánh tay, còn lại là những biểu hiện tại chỗ của bệnh lý toàn thể. Bệnh cảnh lâm sàng càng trở nên phức tạp khi cả 2 khả năng này cùng tồn tại.
Triệu chứng cơ năng và thực thể
Đau cổ có thể chỉ giới hạn ở vùng gáy hoặc tùy thuộc vào vị trí tổn thương có thể lan lên vùng chẩm, vai, cánh tay, cẳng tay và bàn tay. Đau có thể tăng lên khi bệnh nhân vận động chủ động hoặc thụ động cột sống cổ. Vị trí đau và dị cảm nhìn chung là tương ứng với các khoanh cảm giác da ở chi trên. Tính chất lan của đau ở chi trên thường tăng lên khi ngửa cổ hết sức và nghiêng đầu về bên đau. Hạn chế vận động cột sống cổ thường là một dấu hiệu khách quan. Các dấu hiệu thần kinh phụ thuộc vào mức độ chèn ép các rễ thần kinh hoặc tủy sống. Chèn ép tủy sổng có thể gây ra yếu hoặc liệt hai chi.
Thăm dò hình ảnh
Các dấu hiệu của X quang phụ thuộc vào nguyên nhân gây đau, ở nhiều bệnh nhân, X quang hoàn toàn bình thường. Một dấu hiệu sớm là mất đường cong bình thường về phía trước của cột sống cổ (mất độ ưỡn cột sống cổ). Giảm chiều cao của các khe đĩa đệm là một dấu hiệu thường gặp. Dấu hiệu X quang muộn và thường thấy nhất là mọc các mỏ xương ở phía trước, cạnh đĩa đệm. Những dấu hiệu muộn khác xuất hiện quanh các khe khớp liên mỏm đốt sống, chủ yếu ở đoạn dưới cột sống cổ. Chụp tủy sống với sự trợ giúp của máy CT scahner và cộng hưởng từ hạt nhân có giá trị để phát hiện tình trạng chèn ép rễ hoặc chèn ép tủy.
Chẩn đoán phân biệt và điều trị
Nguyên nhân đau cổ gồm căng cứng hoặc vẹo cổ cấp hoặc mạn tính, thoát vị nhân nhày đĩa đệm, thoái khớp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp dạng thấp, cốt tủy viêm, khối u, hẹp ống sống, gẫy xương có chèn ép và các rối loạn chức năng.
Căng cứng gân cơ vùng cổ cấp hoặc mạn tính
Căng cứng vùng cổ nói chung do những bất thường về tư thể có tính chất cơ giới, gắng sức, chấn thương (ví dụ khi quay cổ quá nhanh và đột ngột). Giai đoạn cấp có biểu hiện đau, giảm vận động cột sống cổ, co cứng cơ cạnh cột sống, gây ra cứng và inất vận động cột sống cổ. Có thể thấy một số điểm đau khi ấn vào các cơ. Điều trị gồm xử lý bất động đầu và cổ bằng kéo giãn hoặc dùng đai cổ và dùng thuốc giảm đau. Nên trở lại các hoạt động bình thường một cách từ từ.
Bệnh nhân với các triệu chứng mạn tính thường ít khi có các dấu hiệu khách quan. Các stress cơ học do công việc hoặc các động tác lặp đi lặp lại thường xuyên thường là những nguyên nhân gây ra tình trạng này. Đau mạn tính, đặc biệt khi lan xuống chi trên có thể đòi hỏi phải điều trị hỗ trợ.
Thoát vị nhân nhầy đĩa đệm
Rạn nứt hoặc xẹp các nhân nhầy của các đĩa đệm vùng cổ vào ống sống gây đau và lan xuống cánh táy ở mức cổ 6 – 7. Tăng áp lực trong ổ bụng khi ho, hắt hơi hoặc những cử động khác có thể làin tăng các triệu chứng và gây co cứng các cơ vùng cổ. Những thay đổi về thần kinh gồm giảm phản xạ gân của cơ nhị đầu và cơ tam đầu; giảm cảm giác, teo cơ hoặc yếu cẳng tay hoặc bàn tay. Bất động vùng cổ, nghỉ ngơi tại giường và các biện phắp điều trị bảo tồn khác thường có kết quả. Chụp tủy hay điện cơ đồ để xác định những tổn thương cần phải phẫu thuật (cắt cung sau đốt sống, làm dính cột sống).
Các bệnh lý của khớp
Thoái hóa cột sống cổ là một tên chung để mô tả những thay đổi do thoái hóa của các khớp liên mỏm và đĩa đệm cột sống, có thể kèm theo các dấu hiệu thần kinh hoặc không. Dấu hiệu của thoái hòá các khớp liên mỏm đốt sống gồm: mỏng dần sụn, loãng xương dưới sụn, mọc gai xương quanh rìa khớp. Thoái hóa của các khớp và các đĩa đệm cột sống cổ có thể xuất hiện ở người trẻ song thông thường là sau 40 tuổi. Tình trạng thoái hóa ngày càng tiến triển và biểu hiện bằng sự hẹp dần của các khe liên đốt trên X quang. Có hiện tượng tăng tạo xương sụn quanh các rìa của thân đốt sống và tạo thành các mỏ xương. Những mỏ xương này xâm lấn vào các khoang liên đốt và ống sống gây chèn ép các dây thần kinh, mạch máu. Những mỏ xương lớn ở phía trước đôi khi có thể gây nuốt khó.
Viêm cột sống dính khớp sẽ được trình bày ở phần dưới. Bán trật khớp đội – trục có thể xuất hiện ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp bất kể mức độ nặng nhẹ của bệnh. Viêm của các cấu trúc hoạt dịch làm cho các dây chằng ngang bị bào mòn, lỏng lẻo, có thể dẫn đến các dấu hiệu thần kinh do chèn ép tủy sống. Điều trị có thể thay đổi từ việc dùng một đai cổ, hoặc một dụng cụ bất động cứng hơn, cho đến điều trị ngoại khoa, tùy thuộc vào mức độ trật khớp và sự tiến triển của các dấu hiệu thần kinh. Trong điều trị ngoại khoa, người ta có thể làm dính cột sông cổ.
Những rối loạn khác
Cốt tủy viêm và các khối u sẽ được trình bày ở phần sau. Loãng xương được trình bày trong bài khác.