HUYỆT: Trung Quản
HÌNH ẢNH
TÊN HUYỆT
Người xưa cho rằng từ ức (chấn thủy) đến lỗ rốn là ống (quản) dạ dầy, huyệt ở giữa (trung) đường nối này, vì vậy gọi là Trung Quản.
TÊN KHÁC
Thái Thương, Thượng Ký, Trung Hoãn, Trung Oản, Trung Uyển, Vị Quản.
XUẤT XỨ
Thiên ‘Kinh Mạch’ (Linh Khu 10).
VỊ TRÍ
Lỗ rốn thẳng lên 4 thốn hoặc lấy ở điểm giữa của đoạn thẳng nối rốn – và đường gặp nhau của 2 bờ sườn.
ĐẶC TÍNH
• Huyệt Hội của mạch Nhâm với các kinh Tiểu Trường, Tam Tiêu và Vị.
• Huyệt Hội của Phủ.
• Huyệt Mộ (chẩn đoán) của Vị.
• Huyệt tập trung khí của Tỳ.
• Một trong nhóm 9 huyệt Hồi Dương Cứu Nghịch.
• Một trong 4 huyệt Hội Khí của Âm Dương (Quan Nguyên, Trung Quản, Thiên Đột và Chí Dương – theo thiên ‘Kinh Mạch Biệt Luận’ (Tố Vấn 21).
TÁC DỤNG
Hòa Vị khí, hóa thấp trệ, lý trung tiêu, điều thăng giáng.
CHỦ TRỊ
Trị dạ dầy đau, ợ chua, nôn mửa, ăn không tiêu, đầy hơi, bụng trướng, kiết lỵ, tiêu chảy, huyết áp cao, thần kinh suy nhược.
CHÂM CỨU
Châm thẳng sâu 0,5 – 2 thốn, có thể hướng mũi kim xuyên sang 4 huyệt quanh đó bằng cách luồn kim dưới thịt. Cứu 10 – 30 phút.
GIẢI PHẪU
• Huyệt ở trên đường trắng. Sau đường trắng là mạc ngang, phúc mạc. Sau thành bụng là phần ngang của dạ dày. Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D8.
PHỐI HỢP HUYỆT
1.Phối Tam Âm Giao (Ty.6) trị ăn không tiêu (Tư Sinh Kinh).
2.Phối Thừa Mãn (Vi.20) trị bụng đau xuyên ra vai (Tư Sinh Kinh).
3.Phối Túc Tam Lý (Vi.36) trị hoàng đản, tay chân không có sức (Ngọc Long Kinh).
4.Phối Khí Hải (Nh.6) trị tiêu ra máu (Châm Cứu Tụ Anh).
5.Phối Cự Hư Thượng Liêm (Vi.37) + Kỳ Môn (C.14) trị suyễn cấp (Châm Cứu Đại Thành).
6.Phối Thiên Xu (Vi.25) + Trung Cực (Nh.3) trị tiêu chảy không cầm (Châm Cứu Đại Thành).
7.Phối Thiên Xu (Vi.25) trị thổ tả (Châm Cứu Đại Thành).
8.Phối Túc Tam Lý (Vi.36) trị đờm (Hành Châm Chỉ Yếu).
9.Phối Chiên Trung (Nh.17) + Khí Hải (Nh.6) trị nôn mửa (Hành Châm Chỉ Yếu).
10.Phối Quan Nguyên (Nh.4) + Thiên Xu (Vi.25) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị bụng đau (Trung Hoa Châm Cứu Học).
10.Phối Ấn Đường + Chương Môn (C.13) + Quan Nguyên (Nh.4) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị kinh phong mạn (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
12.Phối Khí Hải (Nh.6) + Nội Quan (Tb.6) + Thiên Xu (Vi.25) trị ruột tắc cấp tính (Châm Cứu Học Thượng Hải).
13.Phối Lương Khâu (Vi.34) + Nội Quan (Tb.6) trị dạ dầy đau (Châm Cứu Học Thượng Hải).
14.Phối Thiên Xu (Vi.25) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị lỵ (Châm Cứu Học Thượng Hải).
15.Phối Túc Tam Lý (Vi.36) trị no hơi, thực đạo co thắt (Châm Cứu Học Thượng Hải).
16.Phối Âm Đô (Th.19) trị nấc cụt (Châm Cứu Học Thượng Hải).
17.Phối Dương Trì (Ttu.4) + Thượng Quản (Nh.13) trị nôn mửa lúc có thai (Châm Cứu Học Thượng Hải).
18.Phối Phế Du (Bq.13) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị ho ra máu (Châm Cứu Học Thượng Hải).
19.Phối Chí Dương (Đc.10) + Đởm Du (Bq.19) + trị vàng da (Châm Cứu Học Thượng Hải).
20.Phối Khí Hải (Nh.6) + Thần Khuyết (Nh.8) trị trúng lạnh (Châm Cứu Học Thượng Hải).
21.Phối Túc Tam Lý (Vi.36) + Vị Thượng trị dạ dầy sa (Châm Cứu Học Thượng Hải).
22.Phối Lương Môn (Vi.21) + Nội Quan (Tb.6) + Thiên Xu (Vi.25) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị dạ dầy xuất huyết (Châm Cứu Học Thượng Hải).
23.Phối Dương Trì (Ttu.4) [đều cứu] trị tử cung lệch (ra trước, sau; qua phải, trái), thoát vị (Châm Cứu Chân Tủy).
24.Phối Công Tôn (Ty.4) + Nội Quan (Tb.6) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị nôn mửa (Tứ Bản Giáo Tài Châm Cứu Học).
GHI CHÚ
• Không châm sâu quá vì có thể vào ổ bụng. Châm đắc khí thấy căng tức tại chỗ hoặc chạy sâu vào trong bụng hoặc xuyên ra sau lưng (Vị Du) hoặc tê vòng quanh kim. Nếu người bệnh Gan và Lách đang sưng lớn, không nên châm xiên ra 4 chung quanh.
THAM KHẢO
• “Thường kết hợp 2 huyệt Trung Quản + Ẩn Bạch (Ty.1). Trung Quản là huyệt của mạch Nhâm, cũng là huyệt Mộ của Vị, là nơi hội tụ của các phủ. Ẩn Bạch là huyệt Tỉnh của kinh túc Thái Âm Tỳ, Kinh Tỳ lấy ‘căn’ ở huyệt Ẩn Bạch, đi lên trên ‘kết’ ở huyệt Thái Thương (Trung Quản), có khả năng bổ ích cho Tỳ Vị, điều lý khí huyết. Hai huyệt này phối hợp với nhau có quan hệ biểu lý giữa kinh lạc với nhau và có quan hệ tạng-phủ nữa. Phối huyệt này có tác dụng kiện Tỳ, ích Vị, bổ trung ích khí, tiêu hóa thức ăn, thăng thanh, giáng trọc” (Phối Huyệt Khái Luận Giảng Nghĩa). “Trung Quản và Vị Du là 2 huyệt thường dùng trị bệnh ở dạ dày nhưng có điểm khác nhau: Trung Quản: bổ mà trệ, thường dùng trị Vị bị thực, thường dùng phép Tả. Về bổ thì thường có tác dụng bổ trung, kiện Vị, về tả thường có tác dụng hòa Vị, tán trệ. Vị Du: bổ mà không trệ, thường dùng trị Vị bị hư. Thường dùng phép bổ. Về bổ có tác dụng bổ ích Vị khí, về tả có tác dụng sơ sướng khí cơ ở Vị phủ. Khi có hàn tà hoặc hàn tà hợp với thực trệ ở Vị: dùng cứu tả huyệt Vị Du không hay bằng cứu tả huyệt Trung Quản (Thường Dụng Du Huyệt Lâm Sàng Phát Huy). “Trung Quản phối Vị Du là phép phối Bối Du huyệt + Mộ huyệt. Cả 2 huyệt đều bổ có tác dụng bổ Vị khí, tăng cường Vị phủ. Cả 2 huyệt đều tả thì tăng cường tác dụng sơ sướng khí cơ ở Vị phủ” (Thường Dụng Du Huyệt Lâm Sàng Phát Huy).