Để điều trị, các nhà châm cứu thường phối hợp nhiều huyệt lại với nhau (còn được gọi là một công thức huyệt). Việc xây dựng công thức huyệt tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc chọn huyệt sau:
Nguyên tắc chọn huyệt tại chỗ.
Nguyên tắc chọn huyệt theo lý luận đường kinh.
Nguyên tắc chọn những huyệt đặc hiệu.
Chọn huyệt theo nguyên tắc tại chỗ
Là cách chọn những huyệt ở chỗ đau, và lân cận nơi đau.
Nói chung, mỗi huyệt đều có ba loại tác dụng: tại chỗ, theo đường kinh và toàn thân. Nguyên tắc chọn huyệt tại chỗ là cách vận dụng đặc điểm đầu tiên về tác dụng điều trị của huyệt.
Những ví dụ sau đây là nói về cách chọn huyệt theo nguyên tắc tại chỗ:
Đau nhức khớp vai: chọn các huyệt Kiên ngung, Kiên tỉnh, Trung phủ.
Đau đầu vùng trán: chọn các huyệt Ấn đường, Toản trúc…
Đau răng: chọn các huyệt Giáp xa, Địa thương, Hạ quan.
Chỉ định: cách chọn huyệt này được sử dụng trong điều trị mọi trường hợp, nhất là đau nhức.
Chọn huyệt theo lý luận đường kinh
Là cách chọn huyệt trên các đường kinh có liên hệ với bệnh và chứng cần điều trị.
Cách chọn huyệt này dựa trên nguyên tắc kinh mạch đi qua vùng nào thì có tác dụng phòng chống được bệnh tật liên quan đến vùng đó.
Trên một hoặc những đường kinh có liên hệ đến bệnh chứng cần điều trị, người thầy thuốc châm cứu đặc biệt chú ý đến những huyệt nằm ở những đoạn từ khuỷu tay đến ngón tay và từ đoạn khoeo chân đến ngón chân.
Các huyệt này thường thuộc các nhóm huyệt nguyên lạc, khích huyệt, nhóm huyệt ngũ du. Việc chọn những huyệt thuộc những nhóm này phải tuân theo những luật nhất định về phối hợp huyệt.
Dưới đây là những cách chọn huyệt theo nguyên tắc đường kinh:
Chọn huyệt nguyên lạc của 12 đường kinh chính
Hệ thống nguyên lạc:
Theo học thuyết kinh lạc thì cơ thể con người có 12 đường kinh chính: gồm 6 kinh của tạng (kinh âm) và 6 kinh của phủ (kinh dương).
Mỗi kinh của tạng (kinh âm) đều có quan hệ biểu lý (bên trong và bên ngoài) với một kinh của phủ (kinh dương) nhất định (ví dụ như: kinh Phế với kinh Đại trường, kinh Can với kinh Đởm, kinh Thận với kinh Bàng quang, kinh Tâm bào với kinh Tam tiêu, kinh Tâm với kinh Tiểu trường, kinh Tỳ với kinh Vị).
Mỗi đường kinh đều có một huyệt nguyên và một huyệt lạc. Sự liên hệ giữa kinh âm và kinh dương nêu trên được thực hiện bằng hệ thống nguyên lạc.
Khí huyết của một đường kinh A có thể đến đường kinh B (có quan biểu lý tương ứng với nó) thông qua hệ thống nguyên lạc này. Khí huyết của kinh A sẽ đi từ huyệt lạc của kinh A đến huyệt nguyên của kinh B. Ngược lại khí huyết của kinh B sẽ đi từ huyệt lạc của kinh B đến huyệt nguyên của kinh A.
Tên huyệt nguyên lạc của 12 kinh chính:
Kinh mạch | Nguyên | Lạc |
Phế | Thái uyên | Liệt khuyết |
Đại trường | Hợp cốc | Thiên lịch |
Tâm bào | Đại lăng | Nội quan |
Tam tiêu | Dương trì | Ngoại quan |
Tâm | Thần môn | Thông lý |
Tiểu trường | Uyển cốt | Chi chính |
Can | Thái xung | Lãi câu |
Đởm | Khâu khư | Quang minh |
Tỳ | Thái bạch | Công tôn |
Vị | Xung dương | Phong long |
Thận | Thái khê | Đại chung |
Bàng quang | Kinh cốt | Phi dương |
Phương pháp sử dụng huyệt nguyên lạc:
Dùng huyệt nguyên kinh tương ứng của bệnh chứng đó phối hợp với huyệt lạc của kinh quan hệ biểu lý tương ứng với nó. Cách phối hợp này thường được áp dụng trong các bệnh lý hư.
Ví dụ:
Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán phế hư: huyệt được chọn gồm Thái uyên (huyệt nguyên của Phế) và Thiên lịch (huyệt lạccủa Đại trường).
Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán Đại trường hư, huyệt được chọn gồm Hợp cốc (huyệt nguyên của kinh Đại trường) và Liệt khuyết (huyệt lạc của Phế).
Dùng huyệt lạc kinh tương ứng với chứng bệnh đó. Cách sử dụng riêng huyệt lạc thường được sử dụng cho cả trường hợp bệnh lý thực và trong cả bệnh lý hư.
Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán Phế thực, huyệt được chọn là Liệt khuyết (huyệt lạc của Phế).
Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán Đại trường thực, huyệt được chọn là Thiên lịch (huyệt lạc của Đại trường).
Chọn huyệt du mộ
Trong châm cứu học, có một nguyên tắc chọn huyệt rất gần với đặc điểm sinh lý giải phẫu thần kinh. Đó là nguyên tắc sử dụng các huyệt du và mộ.
Hệ thống du mộ huyệt của 12 đường kinh:
Huyệt du: là những huyệt nằm trên kinh Bàng quang ở lưng (do đó còn gọi là bối du huyệt), đại biểu cho các tạng phủ. Ví dụ:
Phế du (bối du huyệt của Phế) có vị trí ở ngang đốt sống lưng 3 4, dù thuộc về kinh Bàng quang nhưng được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Phế (các bệnh lý có liên quan đến hô hấp).
Tỳ du (bối du huyệt của Tỳ) có vị trí ở ngang đốt sống lưng 11 12, thuộc về kinh Bàng quang, được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Tỳ (các bệnh lý có liên quan đến tiêu hóa).
Đại trường du (bối huyệt du của Đại trường) có vị trí ở ngang đốt sống lưng 4 5, thuộc về kinh Bàng quang, được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Đại trường (các bệnh lý có liên quan đến ruột già).
Huyệt mộ: là một loại huyệt đại biểu khác cho các tạng phủ, nằm ở các đường kinh chính đi qua bụng. Ví dụ:
Đản trung (mộ huyệt của Tâm bào) nằm trên đường giữa ngực, ngang khoảng liên sườn 4; dù nằm trên mạch Nhâm nhưng được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Tâm bào (có liên quan đến các bệnh lý của hệ tim mạch).
Trung quản (mộ huyệt của Vị) nằm trên đường giữa bụng, trên rốn 4 thốn; trên mạch Nhâm; được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Vị (các bệnh của hệ tiêu hóa).
Trung cực (mộ huyệt của Bàng quang) nằm trên đường giữa bụng, dưới rốn 4 thốn; trên mạch Nhâm, được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Bàng quang (các bệnh lý liên quan đến tiết niệu).
Hai loại huyệt này (du và mộ huyệt) có đặc điểm chung là ở gần các tạng phủ mà chúng đại diện. Vì vậy có tác dụng lớn trong chữa bệnh mạn tính của tạng phủ mà các huyệt này đại diện.
Du và mộ huyệt của 12 đường kinh:
Kinh mạch | Mộ | Du |
Tâm | Cự khuyết | Tâm du |
Can | Kỳ môn | Can du |
Tỳ | Chương môn | Tỳ du |
Phế | Trung phủ | Phế du |
Thận | Kinh môn | Thận du |
Tâm bào | Đản trung | Tâm bào du |
Đại trường | Thiên xu | Đại trường du |
Tam tiêu | Thạch môn | Tam tiêu du |
Tiểu trường | Quan nguyên | Tiểu trường du |
Vị | Trung quản | Vị du |
Đởm | Nhật nguyệt | Đởm du |
Bàng quang | Trung cực | Bàng quang du |
Phương pháp sử dụng du mộ huyệt:
Nhóm huyệt du mộ được chỉ định trong các bệnh lý của các cơ quan nội tạng (bệnh của tạng phủ) và thường dùng trong các bệnh được chẩn đoán hư theo y học cổ truyền.
Cách sử dụng khi có chỉ định là phối hợp cả du huyệt và mộ huyệt của kinh tương ứng với tạng phủ có bệnh.
Ví dụ: chọn huyệt Trung phủ (mộ của Phế) và Phế du (du huyệt của Phế) để điều trị bệnh lý Phế hư.
Tuy nhiên, trongthực tế lâm sàng việc sử dụng đồng thời cả du và mộ huyệt có lúc khó khăn, do đó du mộ huyệt còn được sử dụng theo luật “dương dẫn âm, âm dẫn dương”, nghĩa là bệnh của tạng (thuộc âm) thì sử dụng bối du huyệt (ở lưng, thuộc dương); và ngược lại bệnh của phủ (thuộc dương) thì sử dụng mộ huyệt (ở bụng, thuộc âm), ví dụ: bệnh lý phế hư (thuộc âm) chọn huyệt phế du (thuộc dương); bệnh lý phủ Vị (thuộc dương) chọn huyệt Trung quản (thuộc âm).
Chọn huyệt ngũ du
Ngũ du huyệt:
Ngũ du huyệt là một nhóm huyệt trong những huyệt đặc trị của 12 đường kinh.
Nó được phân bố từ khuỷu tay trở ra và đầu gối trở xuống.
Người xưa dựa vào sự vận hành của khí huyết trong kinh mạch, dùng hiện tượng nước chảy tự nhiên để minh họa (khí hành từ nhỏ đến lớn, từ nông đến sâu). Để phân biệt, người ta dùng 5 tên gọi: tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợpvới những tác dụng riêng để biểu hiện sự lưu hành của khí qua mỗi huyệt trong kinh mạch.
Nơi nước đầu nguồn, chỗ xuất của khí là tỉnh.
Nơi nước chảy nhẹ, chỗ lưu của khí là vinh (huỳnh).
Nơi nước dồn lại để lưu hành, chỗ chú của khí là du.
Nơi nước đi qua, chỗ hành của khí là kinh.
Nơi nước tụ lại, chỗ nhập của khí là hợp.
Tác dụng của ngũ du huyệt:
Tỉnh huyệt chủ trị dưới tâm đầy.
Huỳnh (vinh) huyệt chủ trị sốt.
Du huyệt chủ trị phong thấp, đau khớp.
Kinh huyệt chủ trị suyễn, ho.
Hợp huyệt chủ trị khí nghịch, tiết tả.
Sự phân bố của ngũ du theo ngũ hành:
Kinh âm | Kinh dương |
Tỉnh huyệt thuộc mộc
Vinh huyệt thuộc hỏa Du huyệt thuộc thổ Kinh huyệt thuộc kim Hợp huyệt thuộc thủy |
Tỉnh huyệt thuộc kim
Vinh huyệt thuộc thủy Du huyệt thuộc mộc Kinh huyệt thuộc hỏa Hợp huyệt thuộc thổ |
Hệ thống ngũ du huyệt của 6 âm chính kinh:
Huyệt
Kinh |
Tỉnh mộc | Vinh hỏa | Nguyên du thổ | Kinh kim | Hợp thủy |
Phế | Thiếu dương | Ngư tế | Thái uyên | Kinh cừ | Xích trạch |
Tâm bào | Trung xung | Lao cung | Đại lăng | Giản sử | Khúc trạch |
Tâm | Thiếu xung | Thiếu phủ | Thần môn | Linh đạo | Thiếu hải |
Tỳ | Ẩn bạch | Đại đô | Thái bạch | Thương khâu | Âm lăng |
Can | Đại đôn | Hành gian | Thái xung | Trung phong | Khúc tuyền |
Thận | Dũng tuyền | Nhiên cốc | Thái khê | Phục lưu | Âm cốc |
Hệ thống ngũ du huyệt của 6 dương chính kinh:
Huyệt
Kinh |
Tỉnh kim | Vinh thủy | Du mộc | Nguyên | Kinh hỏa | Hợp thổ |
Đại trường | Thương dương | Nhị gian | Tam gian | Hợp cốc | Dương khê | Khúc trì |
Tam tiêu | Quan xung | Dịch môn | Trung chữ | Dương trì | Chi câu | Thiên tĩnh |
Tiểu trường | Thiếu trạch | Tiền cốc | Hậu khê | Uyển cốt | Dương cốc | Tiểu hải |
Vị | Lệ đoài | Nội đình | Hãm cốc | Xung dương | Giải khê | Túc tam lý |
Đởm | Khiếu âm | Hiệp khê | Lâm khấp | Khâu khư |