Chứng Tâm âm hư là chỉ các chứng hậu Tâm âm suy hư, Tân dịch hao tổn dẫn đến Tâm huyết bất túc mà gây bệnh. Phần nhiều do nội thương thất tình, ngũ chí hóa hoả, nhiệt thương âm hoặc là do mắc nhiệt bệnh, ốm lâu hao thương tân dịch gây nên.
Lâm sàng biểu hiện chủ yếu là Tâm quí, chính xung, đau vùng ngực, vùng ngịu, hay quên, mất ngủ hay mê, ngũ Tâm phiền nhiệt, họng khô lưỡi ráo, sốt nhẹ, mồ hôi trộm, lưỡi đỏ, ít rêu mạch Tế Sác…
Chứng Tâm âm hư thường gặp trong các bệnh: “Tâm quí”, “chính xung,”Hư lao”Bất mị “
Chứng này cần phân biệt với “Chứng Tâm huyết hư”,”Chứng Tâm khí âm đều hư”,”Chứng Tâm Thận bất giao”,”Chứng Tâm Phế Âm hư”.
Phân tích
– Chứng Tâm âm hư thường biểu hiện khác nhau trong các tật bệnh khác nhau. Ví dụ: Tâm quý và chính xung mà xuất hiện chứng Tâm âm hư, thì biểu hiện là trong Tâm hồi hộp không yên, vùng ngực khó chịu, hư phiền, mất ngủ hay mê, miệng ráo họng khô, lưỡi đỏ ít rêu mạch Tế Sác, nặng hơn thì có các chứng trạng trong Tâm rung động không tự chủ, sợ sệt, đau vùng Tim từng cơn ngũ tâm phiền nhiệt, mồ hồi trộm hoặc tự ra mồ hôi, mạch Kết Đại.
– Do mệt nhọc tổn thương, âm huyết bị suy sụp ngấm ngầm, Tâm thần không được nuôi dưỡng, Thần không có nơi dựa cho nên hồi hộp không yên, phiền nhiệt mồ hôi trộm, lưỡi đỏ mạch Tế Sác… Đó là những chứng trạng do Âm hư sinh ra. Mục “Kinh quí chính xung” trong sách Đan Khê Tâm pháp có nói: “Cảm thấy Tim đập nhộn nhịp là do huyết thiếu” và “Chính xung là do huyết hư” về điều trị chọn dùng các bài thuốc: Thiên vương bổ tâm đan (Nhiếp sinh bí phẫu), Bá tử dưỡng tâm hoàn gia giảm (Thể nhân vậng biên).
– Nếu trong bệnh Hư lao xuất hiện chứng Tâm âm hư, biểu hiện lâm sàng có đặc trưng là hồi hộp phiền táo, đoản hơi yếu sức miệng khô lưỡi nhạt, mạch Tế Sác vô lực, phần nhiều do Tâm âm bất túc, doanh huyết không đầy đủ, bên trong không nuôi dưỡng được mạch đạo, bên ngoài không làm tươi lên mặt và lưỡi gây nên bệnh. Điều trị cần dưỡng âm bổ Tâm, cho uống Sinh mạch tán @@@(Nội thương biện hoặc luận) phối hợp với Đương qui bổ huyết thang (Nội ngoại thương biện hoặc luận).
– Nếu trong bệnh Bất mị xuất hiện chứng Tâm âm hư, biểu hiện lâm sàng là hồi hộp, ngữ tâm phiền nhiệt, trằn trọc khó ngủ, chất lưỡi đỏ, mạch Sác… Bệnh phần nhiều do Thận âm bất túc, Tâm hỏa quá mạnh, dẫn đến Tâm Thận bất giao. Điều trị cần tư âm thanh nhiệt, cho uống Giao thái hoàn(Hàn thị y thông) hoặc Hoàng liên A giao thang(Thương hàn luận).
Chứng Tâm ám hư trong quá trình diễn biến bệnh cơ, vì huyết không nuôi Can, lâm sàng thường có kiêm cả chứng trạng của Tâm Can cùng mắc bệnh mà đặc trưng là triệu chứng Tim hoi hộp, co giật. Tân dịch thuộc âm, mồ hôi là chất dịch của Tâm, ra nhiều mồ hôi thì hại Tâm âm, sốt cao cũng hun đốt Tâm am, cho nên Tâm âm hư thường có kiêm cả hư hoả, nên đa số có hiện tượng nội nhiệt đặc điểm chứng trạng là sốt nhẹ, mồ hôi trộm, gò má đỏ, mạch Tế Sác. Tâm huyết hư thì chứng trạng nổi bật là chóang váng, sắc mặt kém tươi, môi khô, móng tay nhợt; mạch Tế Nhược. Phép chữa chứng Tâm âm hư, chủ yếu phải tư âm; Còn chứng Tâm huyết hư thì nên điều trị theo phép bổ huyết và sinh huyết.
Chẩn đoán phân biệt
– Chứng Tâm khí âm đều hư với chứng Tâm âm hư: Căn cứ vào lý luận âm dương hỗ căn, bệnh Âm liên luỵ đến Dương và ngược lại, hai chứng Tâm khí âm đều hư với chứng Tâm âm hư đều trong phạm vi hư chứng. Bệnh cơ của hai chứng có liên hệ với nhau, lại có chỗ khác nhau.
Điều phân biệt chủ yếu giữa hai chứng này là; Chứng Tâm khí âm đều hư vừa có chứng trạng Tâm âm hư lại có cả chứng trạng Tâm khí hư. Tâm âm bất túc thì hồi hộp giãn đến Tâm âm không mạnh ; khí huyết kém lưu thông thì vùng ngực bứt dứt khó chịu. Tâm khí không điều hòa thì mạch Kết Đại; Chất lưỡi đỏ, thân lưỡi non bệu là đặc trưng của khí hư và âm hư. Mà chứng Tâm ám hư, lưỡi đỏ ít tân dịch là do tân dịch bất túc gây nên. Tâm âm bất túc, âm không chế được dương, hư hỏa động ở trong thì xuất hiện các chứng sốt nhẹ, mồ hôi trộm và ngũ tâm phiền nhiệt.
– Chứng Tâm Phế âm hư với chứng Tâm âm hư: Hai tạng Tâm Phế có mối liên hệ liên tục; chứng Tâm Phế âm hư với chứng Tâm âm hư đều có các chứng trạng giống nhau do tân dịch hao tổn gây nên như miệng khô lưỡi ráo, nóng từng cơn, mồ hôi trộm, lòng bàn tay chân nóng, mất ngủ, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác v.v. Nhưng hai chứng có đôi chỗ khác nhau. Chứng Tâm âm hư gây nên phần nhiều do bệnh Nhiệt, ốm lâu thương Âm hoặc nội thương thất tình, hóa hỏa thương âm, chứng trạng chủ yếu trên lâm sàng là ở tạng Tâm. Chứng Tâm Phế âm hư phần nhiều do ốm lâu thể lực yếu, hoặc Phế mất sự túc giáng, tà nhiệt lưu luyến lâu ngày làm tổn hại Phế âm, hoặc do phát hãn thái quá, Phế âm bị thương, không nuôi dưỡng được tạng Phế gây nên bệnh, chứng trạng đặc điểm trên lâm sàng là Phế hư mà có hiện tượng nhiệt. Chứng Tâm Phế âm hư ngoài những triệu chứng cụ thể của Tâm âm hư còn có cả chứng hậu của Phế âm hư. Bởi vì Phế là tạng non nớt, ưa nhuận mà ghét ráo, âm hư thì Phế ráo, Phế khí không tuyên thông nên ho khan không có đờm, hoặc có ít đờm, hư nhiệt hun đốt tân dịch, tân dịch bất túc, không nuôi duỡng được mạch của Phế đến nỗi đường lạc của Phế bị tổn hại, xuất hiện chứng trong đờm có lẫn máu. Có thể phân biệt rõ điểm này.
– Chứng Tâm huyết hư với chứng Tâm âm hư: cả hai đều có chứng trạng về âm huyết suy hư như hồi hộp, đoản hơi, mất ngủ hay mê và hay quên. Chứng Tâm huyết hư có thể do ốm lâu thể lực yếu, nguồn sinh hóa ra huyết bị khô cạn, hoặc là thứ phát sau khi mất máu, hoặc quá độ lao tâm, doanh huyết hao tổn gây nên. Biểu hiện lâm sàng là sắc mặt kém tươi, môi khô, móng tay chân nhợt, chất lưỡi nhạt, mạch Tế Nhược. Tâm huyết hư thì huyết không tô đẹp lên trên, làm cho chóng mặt, sắc mặt không tươi. Huyết hư thì môi lưỡi nhợt; Huyết mạch không đầy đủ thì mạch Tế Nhược. Chứng Tâm âm hư đa số do tư lự quá mức, lao tâm quá độ tổn hại tới Tâm âm đến nỗi Tâm mất sự nuôi dưỡng; Tình chí hao thương âm huyết đến nỗi Tâm âm bất túc. Cũng có khi do cơ thể vốn suy nhược, tự ra mồ hôi kéo dài, ra mồ hôi trộm, đau bụng ỉa chảy kéo dài hoặc sau khi sốt cao tổn hại tân dịch gây nên. Tâm âm bất túc, âm không chế dương, hư nhiệt từ trong sinh ra, thúc đẩy tân dịch tiết ra ngoài thì sốt nhẹ ra mồ hôi trộm; Hư hỏa quấy rối ở bên trong cho nên lòng bàn tay bàn chân nóng. Âm hư thì nội nhiệt, cho nên họng khô lưỡi ráo, gò má đỏ, Âm hư huyết thiếu cho nên lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch Tế Sác. Như vây thì thấy so sánh hai chứng này, chứng Tâm huyết hư nhẹ hơn, chứng Tâm âm hư nặng hơn.
– Chứng Tâm Thận bất giao với chứng Tâm âm hư: cả hai đều có chứng trạng hồi hộp Tâm phiền, mất ngủ hay quên. Nhưng chứng Tâm âm hư chứng trạng lâm sàng nổi rõ là ở Tâm, còn chứng Tâm Thận bất giao chứng trạng lâm sàng lại ở cả Tâm và Thận. Tâm vị trí ở Thượng tiêu, Thận vị trí ở Hạ tiêu; Tạng Tâm thuộc dương, chủ về hỏa và chứa thần; Tạng Thận thuộc âm, chủ về thủy và chứa tinh. Ở tình huống sinh lý bình thường, Tâm hỏa giao xuống có thể giúp cho chân dương ở trong Thận, khiến cho âm thủy có thể hóa sinh, Thận thủy giúp đỡ lên trên, làm dịu Tâm hỏa khiến cho Tâm hỏa không găng quá; Tâm với Thận, âm và dương, trên và dưới cùng chế ước lẫn nhau, dựa vào nhau mà tồn tại, thăng và giáng nhịp nhàng, Thủy với Hỏa giúp đỡ nhau. Khi một tạng Tâm hay Thận phát sinh tật bệnh, thường là xuất hiện chứng hậu Tâm Thận không giao nhau, như hồi hộp hay mê, dễ kinh sợ, tai ù tai điếc, miệng lưỡi mọc mụn, mỏi lưng, mềm gối, di tinh, bạch trọc v.v. Phân biệt như vậy rất rõ.
Trích dẫn y văn
– Bệnh chính xung, vùng ngực và Tâm rung động, hồi hộp sợ sệt, không lúc nào được yên… Chứng này chỉ người nào âm hư lao tổn mới mắc; Bởi vì âm hư ở phía dưới thì Tông khí ở phía trên vô căn, mà khí không trở về nguồn, cho nên ở phía trên thì vùng ngực cảm như bồng bềnh hồi hộp, ở phía dưới thì rung động ở cạnh rốn; nếu hư ít thì rung động nhẹ, hư nhiều thì rung động cũng nặng (Chính xung kinh khủng – cảnh Nhạc toàn thư).