Châm cứu Điều trị đau đầu
(ĐẦU THỐNG)
Y học hiện đại:
Đau đầu là cảm giác đau nhức trong sọ có tính chất lan tỏa hay khu trú, hay đau trong hoặc ngoài sọ mang tính chất tăng cảm giác ở một vùng da đầu vùng đốt sống cổ hay đau ở sau gáy.
Đau đầu là một triệu chứng của một bệnh nào đó có nguyên nhân hoặc chỉ là đơn chứng ( Bệnh tâm căn- suy nhược thần kinh ). Đòi hỏi người thầy thuốc phải có một kiến thức rộng để loại trừ các nguyên nhân nguy hiểm đến tính mạng ( Tuy ít gặp nhưng dễ mắc sai lầm).
Y học cổ truyền
Đau đầu là một hiện tượng chủ quan thường gặp, có thể thấy trong nhiều bệnh.
Đau đầu thuộc phạm trù chứng đầu thống, đầu phong, não phong của y học cổ truyền.
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
Y học cổ truyền cho rằng đầu là nơi hội tụ các kinh dương, trong đầu có chứa não, não là bể của tủy, cho nên khí huyết của ngũ tạng lục phủ đều hội tụ trên đầu. Nguyên nhân chính gây đau đầu là do ngoại cảm thời tà và tình chí nội thương.
Do ngoại cảm thời tà
Người bệnh cảm thụ phải tà khí của phong, hàn, thấp, nhiệt mà trong đó chủ yếu là phong, phong có thể:
+ Kết hợp với hàn tà dẫn tới hàn ngưng huyết ứ làm cho sự lưu thông của khí huyết trong mạch bị tắc trở, huyết uất ở trong không lưu thông được mà sinh ra bệnh.
+ Phong có thể kết hợp với nhiệt tà làm cho phong tà thượng nhiễu lên trên dẫn tới khí huyết bị nghịch loạn mà phát sinh đau đầu.
+ Phong có thể kết hợp với thấp tà, nó bao bọc lấy thanh khiếu làm cho thanh dương bất thăng bị bế trở ở bên trong mà phát sinh đau đầu.
+ Ngoài ra sách cổ còn nói tới một số bệnh đau đầu do cảm phải một số khí là, truyền từ người này qua người khác, có tính chất truyền nhiễm tạo thành vùng dịch gọi là đau đầu do dịch lệ.
Do tình chí, nội thương
Do sang chấn về mặt tinh thần, thường ảnh hưởng tới chức năng sơ tiết và điều đạt của tạng can làm cho can khí uất lại mà hỏa nhiễu loạn lên trên mà dẫn đến đau đầu. Đồng thời do khi can uất hóa hảo làm tổn thương đến can âm, dẫn đến can thận âm hư, can dương vượng cũng dẫn tới đau đầu.
Trong những trường hợp người bệnh lo âu, suy nghĩ căng thẳng nhiều sẽ làm ảnh hưởng tới chức năng vận hóa tạng tỳ làm tỳ hư sinh đàm thấp, đàm thấp có thể bao bọc các thanh khiếu, làm thanh bất thăng, trọc bất giáng cũng phát sinh đau đầu.
Đau đầu còn có thể gặp ở những người lao lực quá độ, ăn uống kém hoặc mắc bệnh kéo dài làm cho nguồn gốc sinh ra khí huyết không đủ, khí huyết không thăng được lên đầu gây đau đầu.
Do bất nội ngoại nhân
Có thể bị ngã hoặc do chấn thương vùng đầu làm cho khí huyết bị ứ, trở trệ ở bên trong phát sinh đau đầu.
– Nếu phát hiện ra các đau đầu thực thể với nguyên nhân nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân cần gửi đến các bệnh viện có chuyên khoa sâu giải quyết.
– 50% các đau đầu do bệnh tâm căn – suy nhược thần kinh có thể điều trị bằng châm cứu rất hiệu quả.
+ Có một phương pháp chẩn đoán trên lâm sàng rất hay áp dụng là “ Kinh lạc chẩn” hay còn gọi là “ tuần kinh thủ huyệt” nghĩa là xem vị trí đau ở đâu…
Triệu chứng.
Đau đầu do ngoại cảm.
Do phong tà: Đau đầu có tính chất cấp tính, đột ngột đau dữ dội, đau theo cơn có lúc dịu đi, kèm theo choáng váng, hoa mắt, có thể có sốt, sợ gió ( ố phong). Mạch phù huyền , hữu lực. Mạch Phù sác (Phong nhiệt); Phù khẩn (Phong hàn).
Do nhiệt tà (còn gọi là thử bệnh): Đau đầu đau dữ dội, liên tục. Mặt đỏ, mắt đỏ, rêu lưỡi vàng dầy, khô, hơi thở hôi.
Cảm giác nóng bức, sốt ra nhiều mồ hôi, miệng khát, thích uống nước lạnh và chườm lạnh, tiểu tiện bí kết (nước tiểu ít, mầu đỏ), táo bón, mạch hồng, sác.
Do thấp tà: Đau nhức nặng, liên tục, trời ẩm thấp (nồm) đau tăng lên, toàn thân nặng nề, đầy bụng, ăn chậm tiêu, có thể có rối loạn tiêu hóa.
Mạch phù, hoạt hoặc hoãn tế.
Do hàn tà: đau đầu có tính chất cấp tính sau nhiễm lạnh, đau dữ dội, buốt như xuyên xuống răng, nhức buốt, chân tay lạnh, sợ lạnh, thích uống nước ấm, ủ ấm.
Mới bị thì mạch phù, khẩn, lâu hơn thì mạch trầm trì.
Đau đầu do nội thương.
Do khí hư: Hơi thở ngắn, yếu, đau đầu nhiều về buổi sáng, về chiều nhẹ hơn, đau tăng khi phải tập trung suy nghĩ, khi lao động nặng, có lúc đầu như trống không, mệt mỏi, chân tay không buồn nhấc lên. Ăn uống kém, mạch phù đoản hoặc trầm nhược .
Do huyết hư: Sắc mặt vàng nhợt, môi miệng xanh bạc. Đau đầu không dữ dội chỉ đau lâm râm cả ngày ở thái dương và đuôi lông mày, thỉnh thoảng đau chói như xuyên qua đầu, về trưa đau tăng lên. Tinh thần bị rối loạn, hay sợ sệt, cơ thể suy nhược ăn uống kém. Mạch trầm, tế sác, vô lực.
Do đàm thấp đình trệ ở trung tiêu: Gò má đỏ, ít nói, dáng chậm chạp, béo bệu ( khí trệ )
đau đầu nhức nặng, choáng váng, mình mẩy nặng nề, nôn nao, buồn nôn, tức ngực, đầy bụng, ho khạc nhiều đờm. Mạch trầm, hoạt.
Do âm hư hỏa vượng: Bốc hỏa, mặt đỏ, đầu đau nhức nặng, choáng váng mắt tối sầm, khi bị kích thích ( bị xúc phạm) thì phát cơn đau dữ dội đau tức lan sang hai mang sườn. Kèm theo đau lưng, mỏi gối, có thể di mộng tinh (nam trẻ tuổi), khí hư bạch đới (nữ)
Mạch: Huyền nhược (chứng hư); Hoạt sác (chứng thực).
Điều trị
Pháp điều trị: Tùy nguyên nhân mà có thể dùng các pháp sau: Khu phong, tán hàn, thanh nhiệt tả hỏa, trừ đàm, hóa thấp, bổ dưỡng khí huyết, tư âm tiềm dương, chỉ thống thông kinh hoạt lạc…
Do ngoại cảm:
Do phong tà: Châm tả Bách hội, Thượng tinh, Thái dương, Phong trì, Phong phủ, Hợp cốc, Ngoại quan, Liệt khuyết.
Do nhiệt ( Hỏa ) tà: Chích huyết ở Thái dương, Đầu duy, ủy chung, Hợp cốc, sau châm tả Hành gian, Khúc trì.
Do thấp tà: Châm tả Bách hội, Thượng tinh, Thái dương, Khúc trì, kết hợp với bổ: Tỳ du, Trung quản, Nội đinh, Túc tam lý, Phong long.
Do hàn tà: Ôn châm hoặc cứu: Bách hội, Thượng tinh, Thái dương, Phong trì, phong phủ, hợp cốc, ngoại quan. Nếu có các triệu chứng kèm theo khác như: Ngạt mũi, chảy nước mũi thì châm Quyền liêu, Nghinh hương. Ho thì châm Thiên đột, khí xá, phế du, liệt khuyết. Đau bụng, sợ lạnh thì cứu Tỳ du ,Vị du, Quan nguyên, Khí hải…
Do nội thương
Do Huyết hư: Châm tả Bách hội, Đầu duy, Khúc trì, Hợp cốc, Can du. Đồng thời châm bổ: Huyết hải, Cách du, Thái xung, Tam âm giao, Túc tam lý.
Do Khí hư: Ôn châm hoặc cứu Bách hội, Trung quản, Quan nguyên, khí hải, Thái khê, Tam âm giao, Túc tam lý.
Do suy giảm chức năng của Tỳ, Phế, Thận gây đàm thấp trở trệ: Châm tả Bách hội, Phong long, Liệt khuyết, Nội quan, Phong trì, ngoại quan. Bổ Tỳ du, Vị du, Thận du, Quan nguyên, khí hải, Thái bạch, Tam âm giao, Túc tam lý.
Do âm hư dương vượng:
Châm tả: Thái xung, Hành gian, Bách hội, Thượng tinh, Ấn đường, Thái dương.
Châm bổ: Tam âm giao, Thái khê.
Châm tả: Thái xung, Hành gian, Bách hội để bình can tiềm dương, Tả: Thượng tinh, Ấn đường, Thái dương để thông kinh hoạt lạc chỉ thống
Châm bổ: Tam âm giao, Thái khê để tư bổ can thận
Liệu trình
Liệu trình ngày 1 lần, mỗi lần từ 15-20 phút. Có thể điện châm kết hợp với thủy châm vitamin nhóm B. Khi thủy châm nên chọn các huyệt ở vùng nhiều cơ và thử Téts trước khi thủy châm.
Với bệnh nhân Đau đầu cần phải khám kỹ để tìm nguyên nhân và loại trừ các tổn thương thực thể, chẩn đoán xác định, kịp thời xử trí tránh những sai sót và tai biến trong điều trị bệnh. Kết hợp với động viên giúp đỡ người bệnh an tâm điều trị.