Chi trên: Ở chi trên, theo nguyên tắc, các nẹp kim loại có thể để yên tại chỗ. Tháo nẹp kim loại chỉ nên xem xét khi có phản ứng viêm hiện diện hay khi nẹp làm cản trở, gây khó chịu cho bệnh nhân về mặt cơ học.
Việc tháo nẹp kim loại ở xương cánh tay hay ở xương quay có thể làm tổn thương thần kinh quay và chỉ nên tháo ra khi có các triệu chứng trên lâm sàng quan trọng hay có biến chứng.
Chi dưới: Ở chi dưới, chỉ định tháo dụng cụ kết xương tùy thuộc vào kiểu dụng cụ và vào thành phần hợp kim tạo nên dụng cụ. Những con vít đơn độc làm bằng thép 316L cũng như nẹp và vít làm bằng titan thuần (không pha với các kim loại khác) theo nguyên tắc có thể để yên.
Các dụng cụ bằng titan như vậy có thuận lợi hơn các dụng cụ bằng thép vì tránh được việc mổ lần thứ hai để tháo ra. Các dụng cụ làm bằng thép không gỉ ở những vùng xương chịu tải trọng cơ thể thường được tháo ra với thời gian như trong bảng sau đây:
Xương | Thời gian rút dụng cụ |
Hai mắt cá | 8-12 tháng |
Trần chày | 12-18 tháng |
Thân xương chày | Nẹp vít: 12-18 tháng; Đinh nội tủy: 18-24 tháng |
Đầu xương chày | 12-18 tháng |
Bánh chè néo ép kiểu cột buồm | 8-12 tháng |
Lồi cầu xương đùi | 12-24 tháng |
Thân xương đùi | Một nẹp: 24-36 tháng; Hai nẹp: từ 18 tháng chia hai giai đoạn cách nhau 6 tháng; Đinh nội tủy: 24-36 tháng |
Mấu chuyển và cổ xương đùi | 12-18 tháng |
Khung chậu (trừ khi có than phiền) | Từ tháng thứ 10 |
Chi trên (tùy chọn lựa) | 12-18 tháng |
Ghi chú: những dữ liệu trên đây liên quan đến các gãy xương gần đây và lành xương không có biến chứng và không áp dụng cho các trường hợp kết hợp xương do khớp giả, gãy có mảnh rời lớn, hay sau nhiễm trùng mà những trường hợp này nên được xem xét riêng từng ca một.
(Nguồn: trích và dịch từ Manual Of Internal Fixation. Techniques Recommended By The Ao-Asif Group. Third edition page 424)