SKĐS - Bướu giáp đơn thuần hay còn gọi là bướu cổ đơn thuần, bướu giáp địa phương, liên quan đến hoóc-môn tuyến giáp
Bướu giáp đơn thuần hay còn gọi là bướu cổ đơn thuần, bướu giáp địa phương, liên quan đến hoóc-môn tuyến giáp, do sự gia tăng về thể tích lan tỏa hay khư trú, không kèm dấu hiệu viêm, các tính hoặc thay đổi chức năng tuyến giáp.
Nguyên nhân gây ra bướu giáp đơn thuần là do thiếu hụt iod. Các rối loạn do thiếu iod đe dọa sự phát triển về con người và kinh tế của các quốc gia. Các trường hợp rối loạn thiếu iod trầm trọng có thể gây ra chậm phát triển trí tuệ như: đần độn, thậm chí thiếu iod nhẹ cũng có thể làm giảm khả năng học tập. Thiếu iod còn gây bướu giáp, thai chết lưu và tăng nguy cơ tử vong của bà mẹ khi sinh và sảy thai ở phụ nữ.
Muối iod là giải pháp hợp lý và hiệu quả nhất để loại trừ các rối loạn do thiếu iod bởi vì tất cả mọi người đều sử dụng muối, vì muối iod dùng rất an toàn, tiết kiệm nên biện pháp này rất bền vững.
Nguyên nhân gây bướu giáp đơn thuần.
Thiếu hụt iod trong đất và nước: nguyên nhân quan trọng ở vùng bướu giáp địa phương. Sự thiếu hụt này gây lên tình trạng gọi là rối loạn do thiếu iod. Rối loạn trong quá trình sinh tổng hợp hoóc-môn tuyến giáp: do tổng hợp hoóc-môn không đầy đủ, hoặc thải trừ quá mức do một số bệnh gây lên như trong hội chứng thận hư. Nếu nhu cầu về hoóc-môn tuyến giáp tăng lên gây ra thiếu hụt tương đối.
Các yếu tố miễn dịch: người ta đã xác định được trong cơ thể một số người có kháng thể kích thích tuyến giáp làm tăng khối lượng song không làm thay đổi khả năng sinh tổng hợp hoóc-môn tuyến giáp (Thyroid Growth immunoglobulin- TGI hay Thyroid Growth Antibody- TGAb).
Xạ hình và siêu âm tuyến giáp cho biết về kích thước, hình thể, vị trí của bướu giáp
Do dùng một số loại thức ăn và thuốc: trong các rau củ thuộc họ cải (Brassica) như: củ cải, bắp cải có chứa goitrin hay progoitrin có khả năng ức chế sự gắn kết iod vào tyrosin, do đó ngăn cản sự tạo ra các tiền chất của T3, T4; trong vỏ sắn (khoai mì) có chứa độc tố gốc thioxyanat có thể gây bướu giáp.
Một số loại thuốc: muối của lithium, kháng giáp tổng hợp, aminodarone, benzodiarone, thuốc cản quang… gây rối loạn chuyển hóa iod.
Sự giảm sút iod vô cơ dẫn đến sự suy giảm tổng hợp hoóc-môn tuyến giáp, gây phản ứng tăng tổng hợp TSH (Thyroid Stimulating Hormone). Khi đó tác dụng tăng khối lượng đối với tuyến giáp của TSH vượt trội hơn so với tác dụng tăng tổng hợp hoóc-môn tuyến giáp. Chính vì vậy mà người bệnh có bướu tuyến giáp to song chức năng tuyến giáp vẫn bình thường. Tuy vậy, nếu bệnh nặng, nồng độ TSH tiết ra nhiều vượt quá khả năng bù trừ của cơ thể, người bệnh sẽ vừa có bướu tuyến giáp to vừa có thể suy giáp. Tương tự nếu tuyến giáp to do sự có mặt của các kháng thể chỉ có tác dụng kích thích sự tăng trưởng nhu mô tuyến giáp chứ không kích thích sự tăng tổng hợp hoóc-môn T3, T4, do vậy chức năng tuyến giáp vẫn bình thường trong khi bướu tuyến giáp vẫn to.
Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng xác định bướu giáp đơn thuần
Bướu tuyến giáp đơn thuần hay xảy ra hơn ở phụ nữ do chịu ảnh hưởng của các giai đoạn thay đổi sinh lý (dậy thì, thai sản, mãn kinh). Dấu hiệu lâm sàng chủ yếu của bệnh là bướu tuyến giáp to dần. Tuyến giáp to có thể được người bệnh phát hiện tình cờ, hoặc do người xung quanh, hoặc khi khám sức khỏe nói chung. Bình thường trọng lượng tuyến giáp ước chừng 25 – 30g, khi trọng lượng >35g thì gọi là bướu tuyến giáp, hay nói cách khác tuyến giáp thường to vượt 20% so với khối lượng bình thường của nó. Tùy độ lớn của bướu tuyến giáp mà xác định độ to theo cách phân loại.
Bướu to có thể gây chèn ép vào khí quản, thực quản. Nếu tuyến giáp to nằm ở sau xương ức có thể chèn ép trung thất trên với dấu hiệu phù. Quan sát da trên bề mặt bướu nhẵn nếu là bướu giáp lan tỏa, hoặc gồ ghề nếu là bướu nhân, ấn không đau. Mật độ tuyến có thể mềm, chắc, đàn hồi. Không có dấu hiệu của bướu mạch (sờ không có rung miu, nghe không có tiếng thổi tại tuyến), bướu di động theo nhịp nuốt. Đa số các trường hợp không có các triệu chứng cơ năng. Đối với những vùng thiếu iod nặng, bướu tuyến giáp có thể kết hợp với suy chức năng tuyến giáp ở các mức độ khác nhau.
Cận lâm sàng: xét nghiệm sinh hóa máu: không có thay đổi đặc hiệu.
Nồng độ hoóc-môn giáp bình thường. Độ tập trung 131I của tuyến giáp bình thường. Nếu là bướu tuyến giáp to do háo iod thì độ tập trung sẽ cao, không có góc thoát. Xạ hình và siêu âm tuyến giáp cho biết về kích thước, hình thể, vị trí của bướu giáp, ngoài ra còn cho biết về tính đồng nhất hay không đồng nhất của bướu giáp. Bướu tuyến giáp lạc chỗ chỉ có thể phát hiện được nhờ xạ hình. X-quang: chụp vùng cổ, ngực để tìm các dấu hiệu di lệch của khí quản hoặc bướu tuyến giáp phát triển xuống trung thất.
Tiến triển và biến chứng bướu giáp đơn thuần
Nếu bướu tuyến giáp mới phát có thể tự khỏi hoặc khỏi sau điều trị. Bệnh có thể ổn định trong một thời gian rất dài. Tuy vậy, nếu có các yếu tố thuận lợi thúc đẩy bệnh như: thay đổi sinh lý của phụ nữ, thay đổi nơi cư trú, nhiễm khuẩn, căng thẳng tâm lý… có thể gây ra những biến chứng. Biến chứng cơ học: chèn ép tĩnh mạch gây tuần hoàn bàng hệ nhất là khi bướu tuyến giáp chìm phát triển vào trung thất trước trên; chèn ép khí quản, dây thần kinh quặt ngược, thực quản gây khó thở, nói khàn và khó nuốt. Nhiễm khuẩn: viêm tuyến giáp. Chảy máu tuyến giáp do loạn dưỡng. Biến chứng về chức năng tuyến: cường tuyến giáp hoặc suy chức năng tuyến giáp. Ung thư hóa.
Điều trị bướu giáp đơn thuần.
Điều trị bệnh bướu giáp nhằm mục đích giảm kích thước của bướu, giữ cho chức năng tuyến giáp luôn ở trạng thái bình thường. Việc điều trị là ức chế giải phóng hoóc-môn TSH của tuyến yên, bởi vì việc tiết TSH được điều chỉnh bằng đáp ứng feedback của nồng độ hoóc-môn tuyến giáp. Liệu pháp được chọn phụ thuộc vào loại bướu giáp; thời gian tồn tại bướu. Với mục đích điều trị bệnh nhân bướu giáp có thể sử dụng các thuốc: Thyroglobulin, Levothyroxine, Liothyronine, Liotrix. Tùy thuộc loại thuốc sử dụng mà dùng với liều lượng khác nhau. Liều thích hợp để đưa nồng độ TSH huyết thanh hạ xuống dưới mức bình thường. Nồng độ T4 và FT4 bình thường hoặc hơi cao hơn mức bình thường. Dùng liều ban đầu thấp sau đó tăng dần để đạt được mục đích điều chỉnh nồng độ hoóc-môn T3, T4 và TSH. Cần phải theo dõi thường xuyên tác dụng của liều điều trị dựa vào triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm.
Tác dụng của phương pháp điều trị nội khoa, thường được đánh giá sau 8 – 10 tháng dùng thuốc, đánh giá bằng siêu âm hoặc khám lâm sàng. Khối lượng của tuyến giáp có thể nhỏ đi từ 40 – 60%. Hiệu quả của các biện pháp điều trị sẽ kém hơn nếu tuyến giáp to lâu ngày, xuất hiện nhân. Trong những trường hợp trên cần chọc hút bằng kim nhỏ để xác định lại chẩn đoán. Chỉ định phẫu thuật khi tuyến giáp rất to có chèn ép về cơ học, có nhiễm độc hoặc nghi ngờ ác tính.
Vai trò của iod trong phòng ngừa bướu giáp đơn thuần
Iod là vi chất dinh dưỡng rất cần thiết cho phát triển của cơ thể, cần cho tổng hợp hoóc-môn tuyến giáp duy trì thân nhiệt, phát triển xương, quá trình biệt hóa và phát triển của não và hệ thần kinh trong thời kỳ bào thai.
Thiếu iod sẽ dẫn đến thiếu hoóc-môn tuyến giáp và gây ra nhiều rối loạn khác nhau: bướu giáp, rối loạn bệnh lý khác như sảy thai, thai chết lưu, khuyết tật bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ, đần độn, cơ thể chậm phát triển, mệt mỏi, giảm khả năng lao động. Khi cơ thể bị thiếu iod, tuyến giáp làm việc nhiều hơn để tổng hợp thêm nội tiết tố giáp trạng nên tuyến giáp to lên, gây ra bướu giáp. Bướu giáp là cách thích nghi của cơ thể để bù lại một phần thiếu iod, khi có kích thước to có thể chèn ép đường thở, đường ăn uống gây ra các vấn đề ảnh hưởng cho sức khỏe. Tất cả các rối loạn do thiếu iod kể cả bệnh đần độn hoàn toàn có thể phòng được bằng cách bổ sung một lượng iod rất nhỏ vào bữa ăn hàng ngày. Những thức ăn từ biển (cá, sò, rong biển) là nguồn thức ăn giàu iod. Sử dụng muối iod hoặc bột canh có sử dụng muối iod trong chế biến thức ăn hàng ngày.
Tình trạng thiếu hụt iod cũng rất đáng quan tâm khi tỉ lệ hộ gia đình sử dụng muối iod trong cả nước còn thấp chỉ 69,5%, hậu quả là có khoảng 1/2 số phụ nữ có thai và trẻ em bị thiếu iod tiền lâm sàng ở mức độ nhẹ và trung bình. Chương trình phòng chống các rối loạn do thiếu iod tại TP.HCM đã triển khai được gần 20 năm. Tuy nhiên, đến nay tỉ lệ hộ gia đình tại TP.HCM sử dụng muối iod chỉ là 77,7%. Có 3 phương pháp dự phòng bệnh bướu cổ: hòa iod vào nước uống. Trộn iod vào muối ăn. Dùng dầu có iod.
Mục tiêu đề ra dùng muối iod cho toàn dân với lượng 4kg/người/năm. Muối trộn iod, đây là biện pháp dễ thực hiện, rẻ tiền, áp dụng rộng rãi. Vì vậy trộn iod vào muối với tỉ lệ 1:10.000 tương đương với 500mg iod/ngày. Người lớn trung bình sử dụng 150 – 300mg iod/ngày. Dùng dầu iod cho các vùng sâu, vùng xa, vùng có tỉ lệ mắc bướu giáp địa phương.
Phân loại độ lớn của tuyến giáp theo Tổ chức Y tế Thế giới.
Độ Đặc điểm
0 Không có bướu tuyến giáp
IA Mỗi thùy tuyến giáp to hơn đốt 1 ngón cái của người bệnh
Sờ nắn được.
IB Khi ngửa đầu ra sau nhìn thấy tuyến giáp to. Bướu sờ nắnđược.
II Tuyến giáp to, nhìn thấy ở tư thế bình thường và ở gần.
Bướu nhìn thấy được.
III Bướu tuyến giáp rất lớn, nhìn thấy dù ở xa.
Bướu lớn làm biến dạng cổ.
BS. NGUYỄN HUY THUẬN